Nhân Cách Và Một Số Khái Niệm Liên Quan Trực Tiếp


lên đường chiến đấu”, “Hát cho đồng bào tôi nghe và nghe đồng bào tôi hát”,“xuống đường”,… anh hùng Lê Mã Lương từng nói: “Cuộc đời đẹp nhất là trên trận tuyến đánh quân thù” thì ngày nay SV lại có phong trào “tình nguyện đi xoá đói giảm nghèo”,“Trí thức trẻ về phục vụ nông thôn, miền núi”... và SV xác định phải học tập,rèn luyện đạt kết quả thật tốt để cống hiến tài năng và trí tuệ của mình cho tương lai phát triển đất nước.

Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng, trong bài phát biểu tại Đại hội Hội Sinh viên Việt Nam lần thứ IX (2013) đã chỉ rõ: Học sinh, sinh viên là những thanh niên ưu tú có tri thức, là lực lượng kế thừa và phát huy những thành quả cách mạng của Đảng và dân tộc, tiêu biểu cho trí tuệ Việt Nam. Trong giai đoạn hiện nay, sinh viên có vai trò và trách nhiệm to lớn, phải ra sức học tập thật tốt, bắt kịp những bước tiến, trình độ, tri thức của thời đại để gánh vác trọng trách của mình.

2.2.1.2. Nhân cách và một số khái niệm liên quan trực tiếp

Nhân cách là cái của con người, chỉ có con người mới có nhân cách nhưng không vì thế mà chúng ta đồng nhất con người với nhân cách. Vì vậy để hiểu nhân cách chúng ta cần làm rõ một số khái niệm liên quan trực tiếp.

Khái niệm con người, triết học Mác khẳng định con người hiện thực là sự thống nhất giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội. Bản chất con người, một mặt bị qui định bởi môi trường và hoàn cảnh lịch sử mà con người tồn tại nhưng mặt khác chính con người cũng tạo ra hoàn cảnh cho phù hợp với mục đích, nhu cầu và lợi ích của bản thân con người. Theo C.Mác, “…Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội” [43, tr.11].

Các yếu tố sinh vật ở mỗi con người chỉ được tạo nên để hình thành nhân cách, hình thành phẩm chất xã hội đặc thù của nhân cách, còn nhân cách phản ánh trình độ phát triển về mặt xã hội, phản ánh mức độ cá thể hóa, tính độc đáo trong mỗi cá nhân con người. Vì vậy, nhân cách là sự thống nhất biện chứng giữa yếu tố xã hội và yếu tố sinh vật trong mỗi con người.


Nhân cách trước hết mang bản chất của con người nói chung nhưng không thể bao quát được toàn bộ bản chất con người vì bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội được cá thể hóa trong các cá nhân.

Cá nhân là một khái niệm triết học dùng chỉ một con người, một thành viên của xã hội là sản phẩm của sự phát triển xã hội, là chủ thể của hoạt động, của những quan hệ xã hội và chủ thể của nhận thức trong một điều kiện lịch sử xã hội cụ thể. Trong xã hội có giai cấp, ngoài những đặc trưng riêng có của mình, mỗi cá nhân đều mang bản chất chung của loài người và bản chất của một giai cấp nhất định. Quá trình trở thành cá nhân thuộc về sự tự vận động của bản thân chủ thể, là quá trình con người tự xác lập nhân cách.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 192 trang tài liệu này.

Khái niệm nhân cách, với luận điểm nổi tiếng: trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội, triết học Mác- Lênin đã xác lập nguyên tắc về tính chế ước xã hội đối với nhân cách cũng như quy luật biểu hiện cụ thể của tính chế ước này. Không dừng lại ở chỗ coi nhân cách chỉ là đặc trưng chức năng của con người, triết học Mác-Lênin còn đi sâu vào giải thích nhân cách trên bình diện bản chất của nó.

Theo đó, nhân cách như là một chỉnh thể cá nhân có tính lịch sử cụ thể tham gia vào hoạt động thực tiễn, đóng vai trò chủ thể nhận thức và cải tạo thế giới, chủ thể của quyền hạn và nghĩa vụ, của những chuẩn mực đạo đức, thẩm mỹ và mọi chuẩn mực xã hội khác. Nhân cách được hiểu một cách khái quát là “đức” và “tài”, năng lực thể chất và năng lực tinh thần; đó là sự thống nhất giữa mặt cá nhân và mặt xã hội ở trong mỗi con người cụ thể. Như vậy, Nhân cách là khái niệm chỉ bản sắc độc đáo, riêng biệt của mỗi cá nhân, là nội dung và tính chất bên trong của mỗi cá nhân.

Giáo dục giá trị văn hóa tinh thần truyền thống dân tộc với việc hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam hiện nay - 6

Nhân cách, bao giờ cũng là sự kết hợp, một sự thống nhất giữa “cái tự nhiên” và “cái xã hội”. Nhân cách vừa có tính ổn định tương đối vừa có tính động. Vậy cấu trúc nhân cách như thế nào? Theo A.G.spirkin, cấu trúc nhân cách bao gồm: “Tư chất di truyền sinh học, tác động của các nhân tố xã hội (môi trường, điều kiện, các chuẩn mực, sự điều chỉnh) và hạt nhân xã hội -


tâm lý của nó - “cái tôi”, trong đó “cái tôi” giữ vị trí hết sức quan trọng, nó tựa như là cái xã hội bên trong của nhân cách, là trung tâm tinh thần - ý nghĩa, điều chỉnh - dự báo tối cao của nhân cách” [62, tr.26-27]. Từ đó có thể hiểu cấu trúc nhân cách là sự thống nhất biện chứng giữa phẩm chất và năng lực – hay còn gọi là “đức” và “tài” trong mỗi người. Thực ra nhân cách là một chỉnh thể thống nhất của nhiều thuộc tính, phẩm chất, xu hướng, khả năng, phong thái, hành vi, trạng thái, tính chất…bên trong, riêng biệt của mỗi cá nhân, nó nói lên sự khác nhau giữa cá nhân này với cá nhân khác.

Nhân cách thường được nói đến với các đặc điểm cơ bản như sau:

Tính thống nhất của nhân cách: Nhân cách là một chỉnh thể thống nhất các thuộc tính, đặc điểm tâm lý, là sự thống nhất giữa phẩm chất và năng lực, giữa nhận thức, tình cảm và ý chí… là sự thống nhất của tất cả mọi nét khác nhau của nó. Đó không phải là phép cộng của các nét, các thuộc tính và đặc điểm tâm lý mà là sự tổng hòa các đặc điểm thuộc tính ấy. Do đó, khi giáo dục SV rèn luyện và hình thành nhân cách phải rèn luyện một cách đồng bộ, và khi giáo dục NCSV không giáo dục nhân cách theo “từng phần”.

Tính ổn định của nhân cách: Nhân cách là tổ hợp các thuộc tính tâm lý tương đối ổn định của cá nhân, tạo nên bộ mặt tâm lý ổn định của nhân cách. Vì vậy, chúng ta có thể phân biệt nhân cách này với nhân cách khác, có thể dự đoán được hành vi của nhân cách trong tình huống khác nhau. Do tính ổn định của nhân cách, khi đánh giá nhân cách, chỉ đánh giá những phẩm chất hoặc những nét tính cách khá ổn định của nhân cách.

Tính tích cực của nhân cách: Đây là một thuộc tính đặc trưng của nhân cách. Giá trị đích thực của nhân cách, chức năng xã hội và cốt cách làm người của cá nhân thể hiện rõ nét ở tính tích cực hoạt động của cá nhân. Trong cuộc sống, tính tích cực của nhân cách luôn luôn cần được phát huy. Đánh giá nhân cách SV là đánh giá tính tích cực trong quan hệ với mặt hạn chế cùng với sản phẩm tương thích của nhân cách.


Tính giao lưu của nhân cách: Nhân cách chỉ có thể tồn tại và thể hiện trong hoạt động và trong mối quan hệ giao lưu với những nhân cách khác. Nhu cầu giao lưu là nhu cầu rất đặc biệt của con người. Con người sinh ra và lớn lên luôn có nhu cầu giao lưu, giao tiếp với người khác và với xã hội. Thông qua quan hệ giao lưu với người khác, con người gia nhập các mối quan hệ xã hội, lĩnh hội các chuẩn mực đạo đức và hệ thống giá trị xã hội.

Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử thì con người sinh ra chưa có NC. NC được hình thành và phát triển trong quá trình sống, hoạt động, giao tiếp với môi trường tự nhiên, xã hội bên ngoài. Quá trình hình thành, NC con người chịu sự chi phối bởi nhiều yếu tố như sinh thể, môi trường, giáo dục, tự giáo dục, hoạt động và giao tiếp xã hội hay nói cách khác nhân cách mang tính động, nó là lượng được thay đổi dần chất theo thời gian.

2.2.1.3. Tính quy luật của sự hình thành và phát triển nhân cách Thứ nhất, sự hình thành và phát triển nhân cách SV diễn ra trong tính

biện chứng giữa mặt sinh vật và mặt xã hội.

Một là, tính biện chứng giữa mặt sinh vật và mặt xã hội.

C.Mác và Ph. Ăng ghen, trong rất nhiều tác phẩm, đặc biệt là trong “Bản thảo kinh tế - triết học năm 1884” và “Biện chứng của tự nhiên” đã nhiều lần đề cập đến biện chứng giữa mặt sinh học và mặt xã hội trong con người, sự gắn kết giữa con người với giới tự nhiên. Trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức” hai ông đã phê phán các nhà triết học (nhất là Phoi ơ bắc) đã tách rời con người với giới tự nhiên “làm như thể con người không bao giờ đứng trước một tự nhiên có tính chất lịch sử và một lịch sử có tính chất tự nhiên” [43, tr.62]. Theo các ông, yếu tố sinh vật trong con người là điều kiện đầu tiên quy định sự tồn tại của con người. Những thuộc tính, những đặc điểm sinh vật, quá trình tâm - sinh lý, các giai đoạn phát triển khác nhau nói lên bản chất sinh vật của cá nhân con người. Tuy nhiên, điều cần khẳng định rằng, mặt tự nhiên không phải là yếu tố duy nhất quy định bản chất con người. Đặc trưng quy định sự khác biệt giữa con người với thế giới loài vật là mặt xã hội. Tính


xã hội của con người biểu hiện trong hoạt động lao động sản xuất vật chất và ngôn ngữ giao tiếp. Nói cách khác, đây chính là quá trình xã hội hóa cá nhân và cá nhân hóa xã hội, nhưng suy cho cùng, xã hội hóa cá nhân là yếu tố quyết định đến sự hình thành và phát triển nhân cách của con người.

Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và phát triển của con người luôn bị quy định bởi ba hệ thống quy luật khác nhau nhưng thống nhất với nhau. Đó là, hệ thống các quy luật tự nhiên, hệ thống các quy luật tâm lý và hệ thống các quy luật xã hội. Ba hệ thống quy luật cùng tác động, tạo nên thể thống nhất hoàn chỉnh trong đời sống con người bao gồm cả mặt sinh vật và mặt xã hội. Mặt sinh vật là cơ sở tất yếu tự nhiên của con người, còn mặt xã hội là đặc trưng bản chất để phân biệt con người với loài vật. Nhu cầu sinh vật phải được nhân hoá để mang giá trị văn minh của con người, và đến lượt nó, nhu cầu xã hội không thể thoát ly khỏi tiền đề của nhu cầu sinh vật. Hai mặt trên thống nhất với nhau, hoà quyện vào nhau để tạo thành con người viết hoa, con người tự nhiên - xã hội.

Hai là, sự hình thành và phát triển nhân cách con người bị qui định bởi yếu tố, điều kiện kinh tế nhất định.

Những mục đích của con người bao giờ cũng xuất phát và gắn liền với tính chế định của điều kiện lịch sử - xã hội, của các quan hệ kinh tế trong một thời đại nhất định. Tính quy định khách quan của điều kiện kinh tế - xã hội đã tạo ra một giới hạn chung, một xu thế chung cho mọi hoạt động của con người. Sự phát triển của nhân cách với tư cách sự phát triển các phẩm chất xã hội của mỗi cá nhân trong cộng đồng xã hội cũng không nằm ngoài những quy định khách quan của điều kiện kinh tế - xã hội hiện thời mà mỗi cá nhân đó là thành viên. Trong đó, nhân tố quy định nhân cách ở tầng sâu nhất là quan hệ lợi ích. Bởi cái lõi của đạo đức là vấn đề lợi ích vật chất. Tính chất của việc giải quyết quan hệ lợi ích giữa cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích xã hội là nhân tố sau cùng qui định bộ mặt của NC. Lợi ích cá nhân là nhân tố quyết định, là cơ sở để thực hiện lợi ích tập thể, lợi ích xã hội. Ngược lại, lợi ích xã hội là điều kiện và đóng vai trò định hướng cho việc thực hiện lợi ích


cá nhân. Vì vậy, NC chỉ được hoàn thiện và phát triển khi giải quyết hài hòa giữa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích xã hội. Quá trình con người tham gia và chủ động tham gia vào các hoạt động kinh tế - xã hội là để tạo điều kiện cho sự phát triển toàn diện của nhân cách.

Từ khi đất nước đổi mới, cơ chế thị trường thừa nhận tính hợp lý và thỏa mãn lợi ích cá nhân đã tạo điều kiện cho sự phát triển NC của con người. Bởi chính lợi ích cá nhân là chất kích thích thôi thúc con người năng động, sáng tạo, tích cực hoạt động. Nhu cầu lợi ích của SV là được học tập trong điều kiện tốt nhất. Tuy nhiên, cần phải chỉ rõ, sự hình thành và phát triển NCSV có thể vượt khỏi quy định của yếu tố, điều kiện kinh tế nhất định. Đó là khi SV ý thức được lợi ích chung, lợi ích dân tộc sẽ sẵn sàng hy sinh lợi ích cá nhân, chiến thắng tư tưởng cục bộ, bản vị hẹp hòi.

Ba là, sự hình thành nhân cách bị qui định bởi nhân tố văn hóa xã hội.

Văn hóa xã hội là tổng hòa của văn hóa cá nhân, tuy nhiên đây không phải là phép cộng đơn giản của tất cả văn hóa cá nhân mà nó là kết tinh của nhiều thời đại, nhiều thế hệ đã qua. Mỗi cá nhân khi sinh ra đã được sống, được tiếp nhận một hệ các giá trị, các chuẩn mực của văn hóa xã hội. Những giá trị, chuẩn mực này được phản ánh trong thế giới quan, hệ thống tri thức xã hội, trong những chuẩn mực về pháp lý, đạo đức, thẩm mỹ... Vì vậy, không thể nói đến NC của một đứa trẻ sơ sinh. NC của một con người được hình thành và phát triển trong môi trường văn hóa xã hội một cách gián tiếp thông qua quá trình giáo dục và tự giáo dục.

Trong những yếu tố cấu thành nên văn hóa tinh thần thì thế giới quan, những chuẩn mực pháp lý, thẩm mỹ, đạo đức... có vị trí quan trọng trong việc hình thành và phát triển nhân cách, đặc biệt trong cấu trúc nhân cách. Một thế giới quan đúng đắn là cơ sở quan trọng nhất để xây dựng một nhân cách phát triển toàn diện. Xã hội hóa cá nhân trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách không chỉ biểu hiện sự tác động một chiều, mà còn bao hàm cả quá trình cá nhân hóa xã hội. Giữa chúng có mối quan hệ biện chứng với nhau, đó


là tác động xã hội đến sự hình thành và phát triển NC con người, đồng thời khẳng định vai trò chủ thể hoạt động cải tạo xã hội của con người. Khi trở thành chủ thể xã hội với bản chất là hoạt động sáng tạo, cải tạo thế giới hiện thực, con người không ngừng tạo ra những điều kiện môi trường xã hội mới, tốt đẹp làm cơ sở cho quá trình hình thành và phát triển NC. Đó chính là quá trình cá nhân hóa xã hội. Đồng thời, thông qua quá trình đó, con người cũng không ngừng cải tạo bản thân mình. Sự thành đạt của mỗi người có tác động tích cực đến việc lành mạnh hóa môi trường xã hội. Giáo dục GTVH tinh thần TTDT cùng với giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh hiện nay không chỉ là làm cho những nguyên tắc ấy được quán triệt cho mọi người, mà còn phải làm cho những nguyên tắc ấy trở thành niềm tin, động lực cho sự hình thành, phát triển nhân cách con người.

Thứ hai, sự hình thành và phát triển nhân cách gắn liền với sự phát triển của con người qua quá trình giáo dục, tự giáo dục và hoạt động thực tiễn.

Một là, sự hình thành và phát triển nhân cách gắn liền với sự phát triển của con người qua quá trình giáo dục. Trước hết, giáo dục có vai trò vạch ra phương hướng, tạo dựng nên những hình mẫu NC phù hợp với yêu cầu của xã hội thông qua nội dung giáo dục giá trị NC, qua mục tiêu giáo dục mẫu hình NC của nhà trường và xã hội. Giáo dục thể hiện ở phương thức truyền thụ tri thức về các giá trị truyền thống và thời đại, những nguyên lý, quy luật, bản chất của nó, được coi là cơ sở nền tảng để hình thành nên giá trị NC của con người. Giáo dục có khả năng và tạo điều kiện để phát huy những mặt mạnh, khắc phục những mặt yếu kém, uốn nắn những sai lệch trong sự phát triển NC. Thậm chí giáo dục còn có khả năng bù đắp những thiếu hụt mà môi trường tự nhiên hoặc yếu tố bẩm sinh di truyền không tạo ra được. Giáo dục có khả năng chuẩn bị cho con người cả những giá trị đạo đức lẫn giá trị trí tuệ để con người vươn tới tương lai, tạo ra những NC mới có khả năng thích ứng.

Hai là, sự hình thành và phát triển nhân cách gắn liền với sự phát triển của con người qua quá trình tự giáo dục. Tự giáo dục biểu hiện ở chỗ mỗi chủ


thể tự giáo dục biết huy động toàn bộ năng lực, hành động của mình từ sự tự ý thức cho đến quá trình tham gia tích cực và tự giác vào việc tạo ra cho mình những điều kiện, môi trường, hoàn cảnh để trong đó họ tồn tại. Quá trình đó, mỗi con người biết tách Cái tôi - chủ thể và cái tôi - đối tượng để tự giác phấn đấu, cải tạo, xây dựng thế giới quan, nhân sinh quan và những phẩm chất tích cực trong nhân cách. Chính sự phát triển của ý thức nhân cách trong mỗi chủ thể hoạt động là yếu tố trực tiếp quy định khả năng xác định, lựa chọn và thực hiện hành vi của nhân cách. Sự phát triển của ý thức nhân cách chính là chỉ số phản ánh sự phát triển nhân cách và là điều kiện quan trọng của việc thực hiện những hoạt động thực tiễn của nhân cách mỗi người trong môi trường xã hội.

Ba là, sự hình thành và phát triển nhân cách gắn liền với sự phát triển của con người qua hoạt động thực tiễn.Tính xã hội là một trong những đặc trưng cơ bản nhất trong các hoạt động thực tiễn của con người. Trong quá trình hoạt động thực tiễn, con người cần thiết phải hợp tác công việc, giao tiếp tình cảm, trao đổi ngôn ngữ với những người xung quanh. Trong quá trình ấy, mỗi cá nhân phản ứng trước sự tác động của môi trường xã hội một cách khác nhau, thể hiện trong bản thân mình nét này hoặc nét khác của môi trường xã hội tạo nên sự phong phú, đa dạng của nhân cách con người. Có thể nói, thông qua hoạt động thực tiễn, con người biểu hiện các năng lực và phẩm chất nhân cách của mình.

Đối với SV, môi trường giáo dục cao đẳng, đại học là thực tiễn sinh động. Sự hình thành và phát triển NCSV gắn liền với quá trình giáo dục, tự giáo dục và hoạt động thực tiễn. Trong quá trình tự giác ấy, mỗi SVcần biết tách mình ra thành cái tôi - chủ thể và cái tôi - đối tượng để tự giác xây dựng thế giới quan, nhân sinh quan và những phẩm chất tích cực trong NC.

Thứ ba, sự hình thành và phát triển nhân cách sinh viên gắn liền với quá trình giáo dục gia đình, nhà trường và xã hội.

Biện chứng của quá trình này được thể hiện trong luận điểm hết sức sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Giáo dục trong nhà trường chỉ là một phần,

Xem tất cả 192 trang.

Ngày đăng: 04/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí