Về Điều Kiện Đời Sống Và Phương Tiện Sản Xuất


nhau ở các địa phương do phương thức bồi thường và số hộ bị thu hồi đất ở. Việc đền bù đất ở bằng đất sẽ khắc phục được những nhược điểm do đền bù bằng tiền. Vì vậy, nếu có điều kiện nên áp dụng hình thức này.

- Bồi thường bằng đất nông nghiệp: mức bồi thường bình quân chung cho các hộ của bảy huyện, thành là 400 m2/hộ. Nếu tính theo số lượng đất nông nghiệp bình quân của hộ bị thu hồi đây là mức bồi thường khá thấp. Không những vậy, mức bồi thường lại khá chênh lệch nhau giữa các tỉnh điều tra. Với mức bồi thường thực tế trên, các hộ nông nghiệp khó có thể duy trì cuộc sống bình thường từ nông nghiệp. Tuy nhiên, ở tất cả các địa phương, nguồn đất nông nghiệp cho đền bù rất hạn hẹp. Nếu có, đất nông nghiệp thường có chất lượng xấu, điều kiện canh tác khó khăn và

cách xa nơi ở của người bị thu hồi đất nên ảnh hưởng xấu đến các hoạt động sản xuất nông nghiệp của họ. Vì vậy, người dân cũng không thật hào hứng với phương thức bồi thường này.

Thứ ba, phương thức bồi thường bằng nhà ở: cũng có một số địa phương bồi thường cho hộ dân bị thu hồi đất ở bằng nhà ở. Nhà ở bồi thường chủ yếu cho các hộ trong nội đô, bị thu hồi hoàn toàn đất và nhà ở. Việc bồi thường bằng nhà ở có ưu điểm là giải quyết chỗ ở ngay cho những người bị thu hồi đất. Nó thuận lợi cho các hộ vốn ở nhà tầng, các hộ ở trong ngõ phố và các hộ đã có công việc ổn định không phụ thuộc vào nhà ở. Tuy nhiên, với các hộ có nhà ở mặt phố, nơi ở của hộ đồng thời là nơi kinh doanh, phương thức bồi thường bằng nhà mới giải quyết được nhu cầu về nơi ở, việc làm chưa được giải quyết. Việc xây dựng các khu tái định cư, đặc biệt việc đưa các hộ nhà mặt phố lên ở nhà cao tầng đã tác động tiêu cực đến đời sống của họ. đây là điều cần phải chú ý. Qua số liệu bồi thường bằng nhà ở do sở tài nguyên môi trường cung cấp nêu trên, cho thấy:

Kết quả bồi thường bằng nhà đã được các địa phương thực hiện và có sự khác nhau về bồi thường ở các địa phương. Tuy nhiên nó chưa phản ánh đầy đủ diễn biến thực tế. Ví dụ: thành phố Vinh đã xây dựng nhiều khu tái định cư ở các phường phục vụ cho công tác bồi thường giải phóng mặt. Thành phố Vinh, Huyện Quỳnh Lưu, Huyện Nghĩa Đàn là những địa phương thực hiện việc bồi thường bằng


nhà ở cho các hộ tương đối lớn.Trên thực tế, ở mỗi địa phương, số hộ mất đất lớn hơn rất nhiều.

- Về diện tích nhà ở bình quân mỗi hộ được bồi thường cũng có sự khác nhau giữa các địa phương. Thành phố Vinh có mức bồi thường cao nhất (80 m2/hộ), Tương dương ở mức thấp nhất (55m2/hộ). Mức độ chênh lệch trên không nhiều và ngay ở địa phương có mức thấp thì diện tích 55m2 cũng là mức diện tích nhà ở khá tốt trong điều kiện hiện nay ở nước ta.

Qua phân tích thực trạng bồi thường cho người dân có đất bị thu hồi, có thể rút ra một số nhận xét sau:

Một là, việc bồi thường cho người dân bị thu hồi đất được thực hiện đa dạng hoá hình thức, bao gồm bồi thường bằng tiền là chủ yếu. Bồi thường bằng đất ở và nhà chủ yếu cho các hộ bị thu hồi đất ở, hình thức này cũng khá phổ biến. Bồi thường đất nông nghiệp có được thực hiện nhưng rất hạn chế, chủ yếu ở một vài địa phương còn quỹ đất ông nghiệp.

Hai là, cùng một loại đất giữa các địa phương việc bồi thường bằng trả tiền có sự khác nhau khá lớn về giá cả. Trên thực tế, bản thân mức giá quy định thấp hơn nhiều so với giá thị trường, song hầu hết các địa phương lại thường lấy khung giá thấp nhất để tính giá bồi thường cho dân. Vì vậy, giá bồi thường chênh lệch khá lớn với giá thị trường đã làm cho người dân có đất bị thu hồi thất thiệt nhiều.

Ba là, mặc dù ở các địa phương đã thể hiện sự cố gắng cho việc bồi thường bằng tiền, bằng đất và bằng nhà. Nhưng những biện pháp trên chưa đủ để tạo lập cho người bị thu hồi đất có cuộc sống khá hơn trước một cách ổn định. Chất lượng nhà và các điều kiện phục vụ cho người bị thu hồi đất còn phải xem xét, điều chỉnh.

3.2.2.2. Về điều kiện đời sống và phương tiện sản xuất

Việc thu hồi đất không chỉ ảnh hưởng đến việc làm của người dân có đất bị thu hồi, mà còn ảnh hưởng rất lớn và sâu sắc đến đời sống của gia đình họ. Qua điều tra điều kiện đời sống của các hộ bị thu hồi đất về các chỉ tiêu diện tích nhà ở, các phương tiện sinh hoạt đắt tiền trước khi thu hồi đất và sau khi thu hồi đất (năm 2013) cho thấy:


+ Trước khi thu hồi đất : diện tích đất ở bình quân của các hộ điều tra ở mức 110 m2, trong đó nhà kiên cố là 80 m2. Các phương tiện đắt tiền chủ yếu là xe máy, ti vi, điện thoại (xem Bảng 3.21). Mức phương tiện trên ở dạng trung bình so với điều kiện của các vùng có đô thị hoá cao những năm trước.

Bảng 3.18: Phương tiện sản xuất và sinh hoạt của các hộ trước khi thu hồi đất



Loại phương tiện


T.P

Vinh

Thị xã Cửa Lò


Nghi Lộc

Diễn Châu

Quỳnh Lưu

Hưng Nguyên

Nghĩa Đàn


Bình quân

Diện tích nhà (m2)


120


80


110


100


100


90


90


110

Nhà kiên cố (m2)


80


70


67,5


70


72,5


75,5


77,9


80

Phương tiện vận tải


0,0


0,0


0,0


0,0


0,0


0,0


0,0


0,0

Xe ôtô con

0,0

0,0

0,0

0,0

0,0

0,0

0,0

0,0

Xe máy (cái)

0,98

0,3

0,5

1,0

1,0

1,4

1,2

1,0

Tivi (cái)

0,95

0,7

0,7

0,9

0,8

1,2

0,9

1,0

Tủ lạnh (cái)

0,45

0,1

0,2

0,2

0,2

0,3

0,3

0,3

Điều hoà (cái)


0,0


0,0


0,0


0,0


0,0


0,0


0,0


0,0

Điện thoại

cố định (cái)


0,55


0,3


0,1


0,2


0,2


0,4


0,5


0,4

Máy tính (cái)


0,05


0,0


0,0


0,0


0,1


0,5


0,1


0,1

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 232 trang tài liệu này.

Giải quyết việc làm và bảo đảm đời sống cho người lao động sau khi bị thu hồi đất trong quá trình công nghiệp hoá, đô thị hoá ở tỉnh Nghệ An - 17

Nguồn: Số liệu tính bình quân của tác giả điều tra qua phỏng vấn các hộ


Bảng 3.19: Phương tiện sản xuất và sinh hoạt của các hộ sau khi thu hồi đất


Loại phương

tiện

Thành phố

Vinh

Thị xã Cửa

Nghi Lộc

Diễn Châu

Quỳnh Lưu

Hưng Nguyên

Nghĩa Đàn

Bình quân

Diện tích nhà (m2)

105

75

100

100

100

90

90

100

Nhà kiên cố (m2)

100

65

65,5

67,8

70,5

70,2

77,9

82

Phương

tiện vận tải

0,1

0,0

0,0

0,1

0,1

0,0

0,1

0,0

Xe ôtô con

0,2

0,1

0,0

0,0

0,0

0,0

0,0

0,1

Xe máy

(cái)

2,0

0,6

1,0

1,0

1,0

1,4

1,2

1,0

Tivi (cái)

1,5

0,7

0,7

0,9

0,8

1,2

0,9

1,0

Tủ lạnh

(cái)

1,5

0,12

0,3

0,3

0,3

0,4

0,4

0,5

Điều hoà

(cái)

0,3

0,3

0,1

0,1

0,0

0,0

0,1

1,0

Điện thoại cố định

(cái)


0,60


0,4


0,2


0,3


0,3


0,5


0,6


0,5

Máy tính

(cái)

1,0

1,0

0,5

0,6

0,6

0,099

0,2

0,2

Nguồn: Số liệu tính bình quân của tác giả điều tra qua phỏng vấn các hộ

+ Sau khi thu hồi đất : từ số liệu các Bảng 2.20 và Bảng 2.21 cho thấy, điều kiện sống của người có đất bị thu hồi được cải thiện đáng kể so với trước khi bị thu hồi đất. Các phương tiện cho sản xuất và sinh hoạt đều tăng. Trong số các chỉ tiêu về đất ở của hộ bị thu hồi đất giảm, nhưng diện tích nhà kiên cố bình quân tại tăng (từ 80 m2 lên 82 m2). Xe máy và ti vi vẫn là những tài sản đắt tiền, nhưng được các


hộ mua sắm tăng lên. Đặc biệt có những phương tiện quá đắt tiền như ô tô, những tài sản như máy vi tính cũng đã biến động theo hướng tăng. Tuy nhiên, nếu so sánh sự chuyển biến trên với mức tăng chung của xã hội thì còn ở mức thấp. Trên thực tế, thu hồi đất đã làm xáo trộn việc làm và đời sống của các hộ bị thu hồi. Vì vậy, tạo những điều kiện để nâng cao đời sống của các hộ bị thu hồi, ít nhất cũng bằng các hộ không bị thu hồi đất trong vùng có thu nhập và đời sống tăng lên một cách bền vững là yêu cầu cơ bản và cấp thiết. Tuy nhiên, cần phải thấy rằng, để có thu nhập và đời sống tăng lên bền vững cần phải đầu tư cho các phương tiện sản xuất. Nhưng, sự biến động về các tư liệu sản xuất của các hộ bị thu hồi đất tăng lên không đáng kể. Đây là điều đáng phải suy nghĩ và cần có biện pháp can thiệp kịp thời.

Thực tế điều tra cho thấy nhiều hộ bị thu hồi đất đã sử dụng không đúng mục đích tiền bồi thường. Tính chung cho các huyện, thành thị điều tra, số hộ sử dụng tiền bồi thường thu hồi đất để mua sắm các phương tiện phục vụ cho sản xuất và sinh hoạt là 25,9%. Trong khi phần lớn số tiền đền bù do bị thu hồi đất chi dùng cho mua sắm phương tiện phục vụ sinh hoạt.

Bảng 3.20: Nguồn gốc của tiền dùng để mua sắm phương tiện phục vụ sản xuất và sinh hoạt của các hộ bị thu hồi đất

Đơn vị:%


Địa phương

Tiền bồi thường thu hồi đất

Từ nguồn khác

Thành phố Vinh

70,5

29,5

Thị xã Cửa Lò

75,4

24,6

Nghi Lộc

82,7

17,3

Diễn Châu

86,4

13,6

Quỳnh Lưu

89,1

10,9

Hưng nguyên

84,7

15,3

Nghĩa Đàn

92,1

7,9

Bình Quân Chung

82,98

17,02

Nguồn: Tổng hợp điều tra của tác giả vào tháng 7/2013


Tiền bồi thường thu hồi đất

Từ nguồn khác



90

80

70

60

50

40

30

20

10

0

Bình Quân Chung

Biểu đồ 3.1 : Nguồn gốc của tiền dùng để mua sắm phương tiện phục vụ sản xuất và sinh hoạt của các hộ bị thu hồi đất.

Nguồn: Tổng hợp điều tra của tác giả vào tháng 7/2013

Như vậy, các hộ gia đình khi nhận được tiền bồi thường thay cho đầu tư vào sản xuất, họ sử dụng tiền đó để mua sắm tư liệu sinh hoạt, xây dựng nhà cửa, mua sắm các đồ dùng đắt tiền để tiêu dùng là chủ yếu. Đây là một trong những nguyên nhân làm cho các tư liệu phục vụ đời sống của các hộ bị thu hồi đất tăng lên. Tuy nhiên, việc sử dụng tiền bồi thường như vậy sẽ tiềm ẩn những điều bất ổn về đời sống của các hộ bị thu hồi đất, những vấn đề xã hội sẽ nảy sinh khi nếp sống hiện tại không phù hợp với khả năng tài chính của họ. Vấn đề tiêu cực như nghiện hút khi dùng tiền bồi thường để tiêu xài hoang phí, gia đình bất hòa khi chia tiền bồi thường không đều, trộm cắp khi không còn tiền...Đây là hậu quả của thu hồi đất, của bồi thường bằng tiền mà các gia đình và cả xã hội phải gánh chịu. Tình trạng tệ nạn mại dâm ở các vùng giáp ranh với thành phố, thị xã, khu đô thị đã xảy ra ở địa phương, trong đó có cả ở Thành phố Vinh. Đây là điều bức xúc cần phải giải quyết.

Công tác bồi thường đất nông nghiệp so với đất cũ

Tuy số lượng người được bồi thường đất nông nghiệp không nhiều, nhưng qua điều tra các hộ, chúng tôi được biết điều kiện đất nông nghiệp cũ của hộ với đất được bồi thường, 74,6% số hộ trả lời đất nông nghiệp bồi thường có điều kiện kém thuận lợi so với trước, trong đó Nghi Lộc, Nghĩa Đàn, Quỳnh Lưu có 100% số hộ


trả lời kém hơn. Kết quả này là hợp lý, bởi đa số đất bồi thường ở xa nơi ở của hộ và có chất lượng xấu.

Bảng 3.21: Điều kiện đất sản xuất bồi thường so với đất cũ

Đơn vị: %


Địa phương

Thuận lợi hơn

Tương đương

Kém hơn

Cộng

Thành phố Vinh




100

Thị xã Cửa Lò



100,0

100

Nghi Lộc



100,0

100

Diễn Châu


28,6

71,4

100

Quỳnh Lưu



100,0

100

Hưng nguyên

11,1

11,1

77,8

100

Nghĩa Đàn



100,0

100

Bình quân chung

11,1

13,4

74,6

100

Nguồn: Tổng hợp điều tra của tác giả vào tháng 7/2013

Về điều kiện của đất sản xuất nông nghiệp, trên thực tế, nhiều hộ trong diện thu hồi, Nhà nước chỉ lấy đi một phần đất sản xuất, phần còn lại sẽ bị ảnh hưởng nhất định. Bởi vì, một phần đất sản xuất nông nghiệp bị lấy đi làm quy mô đất bị thu hẹp. Hơn nữa, khi xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị trên đất nông nghiệp bị thu hồi, tình trạng đất ô nhiễm, đất kẹt, các công trình phục vụ sản xuất nông nghiệp còn lại bị phá vỡ đã ảnh hưởng xấu đến phần đất còn lại của hộ.

Điều kiện của khu tái định cư so với nơi ở cũ: Cũng giống như bồi thường đất nông nghiệp, số hộ được bồi thường nhà ở khu tái định cư không nhiều. Qua điều tra các hộ về các điều kiện của khu tái định cư như hệ thống đường giao thông, điện, nước sinh hoạt, môi trường, điều kiện khám, chữa bệnh, các công trình công cộng, tình hình an ninh cho thấy:

+ Về điều kiện giao thông nội bộ khu tái định cư và giao thông công cộng, nhìn chung được quy hoạch thuận lợi, phù hợp so với chỗ ở cũ. Có trên 60% số hộ trả lời giao thông nội bộ và 65 % trả lời giao thông công cộng của khu tái định cư thuận lợi hơn trước. Sở dĩ có kết quả trên là do các địa phương có những quan tâm nhất định đến xây dựng kết cấu hạ tầng cho khu tái định cư, nhất là giao thông. Tuy


nhiên, mức độ đánh giá về điều kiện giao thông tốt hay xấu hơn nơi ở cũ không chỉ phụ thuộc vào mức độ đầu tư của khu tái định cư, mà còn phụ thuộc vào tình trạng hệ thống giao thông ở nơi ở cũ.

+ Về điều kiện cung cấp nước sạch: qua tổng hợp điều tra ở các địa phương cho thấy có 35,5% ý kiến đánh giá điều kiện cung cấp nước sạch ở khu tái định cư tốt hơn nơi ở cũ. Có tới 53,7 % đánh giá ở mức tương đương, chỉ có 13,8 % đánh giá ở mức xấu hơn. Trên thực tế, các khu tái định cư là những khu ở tập trung, vì vậy nước sạch là nhu cầu không thể thiếu đối với người đến định cư. Với yêu cầu đó, khi xây dựng khu định cư các địa phương đã chú ý tới vấn đề này.

+ Về tình hình cung cấp điện ở khu tái định cư: các địa phương cũng chú trọng đầu tư khi xây dựng các khu định cư vì đây cũng là nhu cầu tối cần thiết và cần phải đầu tư tổng thể. Đánh giá về tình hình cung cấp điện cho khu tái định cư, qua điều tra cho kết quả các địa phương đã thực sự quan tâm đến vấn đề này. Bình quân có trên 90 % số hộ cho rằng tình hình cung cấp điện ở khu tái định cư tốt hơn nơi ở cũ.

+ Về điều kiện môi trường của khu tái định cư: cũng là vấn đề được mọi người quan tâm.Tính chung cho các địa phương điều tra: có tới 85% số hộ được điều tra cho rằng điều kiện môi trường ở khu tái định cư bằng và tốt hơn nơi ở cũ, trong đó 30 % ý kiến đánh giá tốt hơn. Số đánh giá xấu hơn là 20%. Đối với vấn đề môi trường ở khu tái định cư, ý kiến đánh giá tốt hơn nơi ở cũ có sự đóng góp của các địa phương. Tuy nhiên, các khu tái định cư phần lớn mới được xây dựng. Trong điều kiện dân trí hiện tại, việc bảo vệ môi trường đã có là rất quan trọng, bởi vì nếp sinh hoạt cộng đồng của đa số người dân còn thấp.

+ Về điều kiện khám, chữa bệnh: đây cũng là vấn đề được các địa phương quan tâm trong xây dựng khu tái định cư. Vì vậy, các đánh giá về vấn đề này cũng rất khả quan. Tính bình quân chung, có tới 80% số hộ điều tra cho rằng điều kiện khám, chữa bệnh ở khu tái định cư bằng và tốt hơn nơi ở cũ, số đánh giá điều kiện khám, chữa bệnh xấu hơn chỉ chiếm khoảng 20%.

+ Về tình hình an ninh của khu tái định cư: tình hình an ninh được hiểu đó là việc phòng chống tội phạm như trộm cắp, nghiện hút, mại dâm, nếp sống đô thị,

Xem tất cả 232 trang.

Ngày đăng: 05/10/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí