Những Vấn Đề Đặt Ra Trong Quá Trình Giải Quyết Việc Làm Và Bảo Đảm Đời Sống Cho Người Lao Động Sau Khi Bị Thu Hồi Đất Trong Quá Trình Cnh, Đth Ở


chữa, xây nhà cửa, sử dụng tiền mua sắm đồ dùng sinh hoạt, hai mục đích này hoàn toàn chính đáng với mong muốn nâng cao chất lượng cuộc sống. Tuy nhiên, nếu chỉ tính toán đến những nhu cầu trước mắt, sau khi hết tiền cuộc sống của người dân sẽ gặp nhiều khó khăn. Các chính sách đền bù mới chỉ tính toán đền bù bằng tiền trước mắt, chứ không chú trọng đến hướng dẫn, tư vấn cho người dân sử dụng tiền đền bù đó sao cho hiệu quả bền vững.

- Chính sách thu hồi đất và quy hoạch sử dụng đất của tỉnh còn bất cập

Việc quy định giá đền bù nhiều chỗ còn chưa hợp lý, giá đền bù thấp và cách thức quy hoạch đất đai của UBND tỉnh còn nhiều nơi làm cho dân chưa yên tâm, chưa tin tưởng với chính sách và quy hoạch của tỉnh. Quy định các mức giá đền bù không theo giá thị trường, không đảm bảo được lợi ích của các hộ thuộc diện thu hồi đền bù đất.

Số dự án “treo” còn nhiều, người dân không yên tâm đầu tư sản xuất, canh tác trên những mảnh đất thuộc quy hoạch dự án nhưng có những dự án đến 2 – 3 năm nay vẫn còn trên giấy, chưa thực hiện. Đôi khi gây nên sự phản đối, không chấp hành việc di dời, giao nộp đất thu hồi của người dân. Người dân thì thiếu hoặc không có việc làm, tuy nhiên vì cũng chưa được thông tin cũng như đền bù rõ ràng nên người dân cũng chưa có sự đầu tư thích hợp đối với vấn đề việc làm. Điều này làm cho đời sống cũng như việc làm của các hộ dân bị ảnh hưởng.

Cùng với chính sách trên để giải quyết bài toán nông dân bị mất đất nông nghiệp, thiếu việc làm, các chuyên gia cho rằng phải phối hợp chặt chẽ, đồng bộ từ Trung ương đến địa phương trong việc rà soát lại quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất nông nghiệp, điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp gắn với kế hoạch đào tạo và sử dụng lao động.

3.3.3. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế

* Từ phía chính quyền

+ Công tác quy hoạch phát triển KT–XH không tính đến GQVL, chỉ quan tâm đến thu hồi đất; quy hoạch từ cấp Trung ương đến tỉnh, thành phố, huyện, thị


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 232 trang tài liệu này.

không toàn diện, thiếu đồng bộ, chủ yếu thực hiện việc lấy đất, xây dựng KCN, KĐT và cơ sở hạ tầng, còn quy hoạch lao động, GQVL thiếu cụ thể, chi tiết và thiếu tính khả thi.

+ Việc xây dựng quy hoạch người dân không được tham gia, quy hoạch cũng không được công bố rộng rãi. Từ chỗ người dân không nắm được quy hoạch phát triển và tiến độ xây dựng và mở rộng các KCN, KĐT; số dự án quy hoạch “treo” còn nhiều, người dân không yên tâm đầu tư sản xuất, canh tác trên những mảnh đất thuộc quy hoạch dự án đã dẫn đến nhiều cách làm trái ngược nhau: một số người ngần ngại không dám đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh; một số khác lại bất chấp cứ mở rộng đầu tư phát triển sản xuất, khi quá trình CNH, ĐTH diễn ra, họ chưa kịp thu hồi đủ vốn đã phải dừng sản xuất, gây lãng phí, thiệt hại lớn và giảm sức hấp dẫn của môi trường đầu tư.

Giải quyết việc làm và bảo đảm đời sống cho người lao động sau khi bị thu hồi đất trong quá trình công nghiệp hoá, đô thị hoá ở tỉnh Nghệ An - 19

+ Chính sách đền bù: Việc quy định giá đền bù nhiều chỗ còn chưa hợp lý, dù nằm trong khung chuẩn của Nhà nước quy định, nhưng nhìn chung mức giá đền bù còn thấp hơn nhiều so với giá thực tế và chi phí mà người dân bỏ ra, từ đó gây tổn thất cho người dân và họ không mặn mà gì với khi bị thu hồi đất. Mặt khác, trong quá trình đền bù nhiều trường hợp những người có điều kiện ngang nhau nhưng lại được đền bù với mức giá khác nhau làm nảy sinh mâu thuẫn, dẫn đến có nơi người dân không chịu nhận tiền đền bù, không bàn giao mặt bằng làm ảnh hưởng đến tiến độ chung.

+ Chính sách đào tạo nghề: có nhiều bất cập, chưa đáp ứng với yêu cầu sử dụng nhân lực của các doanh nghiệp, nhiều khi việc đưa người đi đào tạo chỉ mang tính hình thức, chi cho hết số tiền của dự án đã duyệt mà không quan tâm đến hiệu quả của hoạt động học nghề có giúp người lao động hình thành kỹ năng và tiếp tục kinh doanh từ nghề đã học hay không. Mặt khác, việc quan tâm mở lớp đào tạo, dạy nghề cho người dân cũng chưa đủ và đúng mức. Việc lấy đất để xây dựng các KCN, cụm công nghiệp thì phần lớn là mới chỉ san lấp mặt bằng các DN đầu tư vào sản xuất kinh doanh chưa nhiều nên sự hỗ trợ kinh phí đào tạo nghề từ các DN chiếm tỷ lệ ít.


+ Chính sách đền bù hỗ trợ việc làm: Tuy được tỉnh quy định, nhưng hầu hết lại thiếu cơ chế kiểm tra, kiểm soát trong quá trình thực hiện. Có một thực tế là DN khi lấy đất cam kết GQVL cho lao động địa phương, nhưng khi đi vào hoạt động đã thu hút rất ít được lao động, thậm chí không thực hiện các cam kết ban đầu. Thêm vào đó có trường hợp DN cam kết sử dụng nguồn nguyên liệu sẵn có tại địa phương để GQVL cho người lao động nhưng khi đi vào hoạt động, DN lại thu mua từ nơi khác về… Chính sách đền bù hỗ trợ việc làm thiếu hiệu quả đã làm gia tăng đội quân thất nghiệp tại tỉnh sau khi thu hồi đất.

Ngoài ra, quá trình CNH, ĐTH trên địa bàn tỉnh những năm gần đây diễn ra nhanh kéo theo nhiều thay đổi phức tạp trong khi đó năng lực quản lý của các cấp chính quyền trong tỉnh không theo kịp đòi hỏi thực tế. Tư duy làm chính sách còn bất cập, thiếu ý kiến của phản biện, chuyên gia trong đó có người dân. Khâu triển khai thực hiện chính sách đang có nhiều vấn đề cần phải tháo dỡ. Dẫn đến hiện trạng việc giải quyết lao động, việc làm chỉ mang tính chất tạm thời, không ổn định.

* Từ phía các doanh nghiệp sử dụng đất

+ Không ít doanh nghiệp chưa thực sự quan tâm đến trách nhiệm hỗ trợ giải quyết việc làm cho người lao động có đất bị thu hồi để xây dựng khu công nghiệp, quy định tuyển dụng lao động quá thấp (18-25), không tổ chức đào tạo nghề tại doanh nghiệp.

+ Có doanh nghiệp vi phạm về quản lý và sử dụng đất đai như: tiến độ triển khai chậm, sử dụng đất sai mục đích , cho thuê lại đất, nhận chuyển nhượng thêm đất nông nghiệp của các hộ dân trái với quy định và ủy ban nhân tỉnh đã phải ra quyết định thu hồi.

+ Nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đòi hỏi người lao động phải biết cả ngoại ngữ và chuyên môn thì mới tuyển dụng, trong khi đó người biết ngoại ngữ lại không có chuyên môn, hoặc người có chuyên môn lại không biết ngoại ngữ. Bên cạnh đó trình độ nhân lực không đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp,

cung không gặp cầu, doanh nghiệp khó tuyển dụng lao động. Số lao động được tuyển dụng vào làm việc trong các nhà máy là rất ít.


* Từ phía người dân

+ Trình độ người lao động thấp không đáp ứng được yêu cầu của các DN đã đến DN khi đi vào hoạt động không thu hút được số lao động của địa phương mà phải tuyển lao động từ nơi khác đến làm việc.

+ Nhận thức sai lệch của người dân dẫn đến việc sử dụng tiền đền bù không đúng mục đích. Đây là điểm chung của hầu hết các hộ thuộc diện thu hồi đất của tỉnh và theo điều tra của tác giả cũng phản ánh tình hình này. Từ đó lý giải việc đào tạo, chuyển đổi nghề nghiệp, GQVL của hộ dân không mấy khả quan.

Cơ cấu chi tiêu tiền đền bù của người dân còn chưa hợp lý với mục tiêu GQVL cho người lao động bị thu hồi đất, từ đó ảnh hưởng rất lớn đến việc giải quyết công ăn việc làm cho người lao động tỉnh. Đây cũng là nguyên nhân làm gia tăng số người thất nghiệp, thiếu việc làm của những lao động này. Ngoài ra, thái độ của người dân còn nặng về trông chờ, ỷ lại vào chính quyền địa phương, thụ động trong việc tìm nghề, hướng nghiệp cho con cháu mình sau khi bị thu hồi đất.

* Nguyên nhân khác

Chuyển dịch CCKT chậm, tạo ít việc làm có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này như thiếu vốn, trình độ của người lao động hạn chế, sự hỗ trợ của các Nhà nước, hoạt động của các ngành, các cấp chưa hiệu quả, chưa đủ mạnh…Mặt khác lĩnh vực dịch vụ chưa phát triển vì vậy chưa tạo được nhiều việc làm.

Thị trường lao động sơ khai (hoạt động của hệ thống dịch vụ việc làm kém, thông tin thống kê về lao động, việc làm thiếu, không kịp thời…), điều này thể hiện ở chỗ: mạng lưới trung tâm dịch vụ việc làm, dạy nghề ở tỉnh còn ít và chưa liên kết chặt chẽ với nhau; cơ sở trang thiết bị của trường dạy nghề tuy mới được đầu tư xây dựng nhưng còn thiếu nhiều phương tiện, thiếu các ngành nghề đào tạo mới, đa dạng để đáp ứng được nhu cầu đào tạo, chuyển đổi nghề nghiệp của người dân trong tỉnh; đội ngũ người dạy và truyền nghề còn thiếu, chưa đáp ứng được yêu cầu đào tạo nghề theo thực tế. từ đó, hoạt động của các trường dạy nghề, các trung tâm dịch vụ việc làm chưa cao, chưa góp phần tích cực vào việc GQVL cho lao động trong tỉnh.


Công tác xuất khẩu lao động ở tỉnh chưa được chú trọng cả về phía người dân cũng như chư chính quyền địa phương. Số người đi xuất khẩu lao động rất ít, nhất là ở địa bàn điều tra của tác giả chỉ có 15/150 hộ có người đi xuất khẩu lao động về. Số đi được lại chủ yếu là tự phát mà chưa có sự hướng dẫn chỉ đạo từ phía chính quyền địa phương.

Chưa phát huy được sức mạnh của toàn xã hội, đoàn thể trong GQVL. Trong thời gian qua, mặc dù Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương chính sách quan tâm đến vấn đề GQVL nhưng cần có sự cộng tác, giúp đỡ hơn nữa của các tổ chức, DN, đoàn thể và mọi người dân trong việc tạo việc làm, GQVL, giảm thất nghiệp, thúc đẩy kinh tế phát triển bền vững.

3.3.4. Những vấn đề đặt ra trong quá trình giải quyết việc làm và bảo đảm đời sống cho người lao động sau khi bị thu hồi đất trong quá trình CNH, ĐTH ở tỉnh Nghệ An

Từ kết quả điều tra thực trạng giải quyết việc làm và bảo đảm đời sống cho người lao động sau khi bị thu hồi đất cho thấy có một số vấn đề bức xúc đang được đặt ra là:

Một là, Việc thu hồi đất để xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị là một yêu cầu khách quan của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nó đã, đang và sẽ còn tiếp tục diễn ra mạnh mẽ trong thời gian tới ở tỉnh Nghệ An. Việc làm này liên quan đến cuộc sống của hàng vạn gia đình.

Việc thu hồi đất thời gian qua ở Nghệ An đã góp phần rất to lớn vào việc phát triển nền kinh tế - xã hội của tỉnh. Cơ cấu của nền kinh tế đã có sự chuyển dần theo hướng tiến bộ, tỷ trọng của khu vực nông nghiệp giảm nhanh, tỷ trọng của khu vực công nghiệp và dịch vụ tăng ngày càng hợp lý. Trình độ công nghệ của các ngành sản xuất được cải thiện rõ rệt. Các đô thị được mở mang, xây dựng mới ngày càng nhiều, to đẹp hơn, hiện đại hơn. Hàng nghìn lao động được giải quyết việc làm với thu nhập cao hơn, ổn định hơn. Đó là những thành tựu không thể không thấy và không nói đến. Tuy nhiên, bản thân vấn đề thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Nghệ An cũng có những mặt trái của nó. Ngoài ra, vì những lý do chủ quan, khách quan những mặt trái của vấn đề nảy sinh một cách trầm trọng hơn do


chính những người thực hiện. Đây cũng là những vấn đề cần quan tâm đúng mức.

Hai là, để phục vụ cho việc thu hồi đất, giải quyết việc làm, ổn định đời sống cho người có đất bị thu hồi, ngoài Luật đất đai năm 1993 và được sửa đổi năm 2003, Nhà nước và tỉnh Nghệ An đã ban hành khá nhiều văn bản làm cơ sở pháp lý nhằm hướng dẫn các cấp, các ngành ở địa phương mình thực thi các quy định của Chính phủ, vừa phù hợp với hoàn cảnh thực tế của địa phương. Đây là một nỗ lực lớn của bộ máy nhà nước các cấp.

Tuy nhiên, chưa có một chiến lưụơc, một quy hoạch và một kế hoạch rõ ràng, có cơ sở khoa học vững chắc về vấn đề này. Vì vậy, việc tiến hành thu hồi đất, bồi thường, giải quyết việc làm và đời sống cho người dân diễn ra hết sức lúng túng và bảo thủ. Hiện tượng thu hồi đất xong không dùng, bỏ hoang hóa, hoặc xây dựng các khu công nghiệp rất khang trang nhưng không mấy doanh nghiệp thuê, xây nhà xong không ai mua, v.v.. quy hoạch “treo”.

Ba là, việc thu hồi đất không chỉ liên quan đến vấn đề kinh tế, mà còn tác động lớn đến vấn đề chính trị, an ninh, quốc phòng, đến tâm tư, tình cảm của nhiều tầng lớp dân cư. Song khi thực hiện nó, chúng ta thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, các ngành, giữa Đảng, chính quyền và các tổ chức quần chúng, nó gần như được khoán trắng cho chính quyền địa phương và Ban quản lý các dự án. Vì vậy, công việc diễn ra hết sức khó khăn, không đồng bộ, gây xáo trộn cho người dân.

Hơn nữa, việc thu hồi đất, bồi thường cho người dân, giải quyết việc làm và đời sống cho họ là công việc đòi hỏi phải có một đội ngũ cán bộ chuyên trách giỏi, có tâm đối với công việc và đối với người dân. Thực tiễn cho thấy, đội ngũ cán bộ làm công tác này vừa thiếu về số lượng, vừa yếu về chuyên môn và chưa thực sự vì dân, còn gây nhiều phiền hà cho dân.

Bốn là, thu hồi đất, giải quyết thu nhập, đời sống và việc làm cho người có đất bị thu hồi là những công việc rất phức tạp và cũng rất nhạy cảm, do đó cần phải có các quy định và chính sách hết sức đồng bộ, cụ thể, rõ ràng, minh bạch và phải được công khai cho toàn dân biết để thực hiện, kiểm soát việc thực hiện của các cơ quan có trách nhiệm. Đặc biệt đối với vấn đề quy hoạch sử dụng đất, kế hoạch thu hồi


đất, giá cả bồi thường đối với từng loại đất, chính sách tái định cư đối với người có đất bị thu hồi, chính sách đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho người lao động có đất bị thu hồi, v.v....

Thực tế hiện nay, chính sách của nước ta chưa đồng bộ, còn mang tính chung chung, do đó việc vận dụng của các địa phương là khá tùy tiện. Vì vậy, trên bình diện chung bao giờ người dân cũng là người bị thiệt thòi nhất.

Năm là, xét theo quan điểm phát triển, việc thu hồi đất là điều kiện và thời cơ tốt nhất để chuyển một bộ phận quan trọng lực lượng lao động nông nghiệp, nông thôn. Muốn làm được việc đó đi đôi với quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất, thu hồi đất phải có kế hoạch đào tạo nghề cho những người bị thu hồi đất và có kế hoạch sử dụng họ sau khi đào tạo. Trên hết, phải có sự đầu tư thỏa đáng cho công tác đào tạo nghề đối với người bị thu hồi đất. Song, hiện nay vấn đề này chưa được quan tâm đúng mức. Người dân mất đất vẫn tự đào tạo, tự tìm việc là chính, việc làm trong nông nghiệp, việc làm lặt vặt vẫn là chính.

Sáu là, vấn đề giải quyết việc bồi thường cho người lao động bị thu hồi đất chưa thể hiện tính thị trường.Giá đất các địa phương xác định để bồi thường cho người dân có đất bị thu hồi vẫn còn thấp với giá thị trường ở địa phương đó trong thời điểm thu hồi. Tình trạng một số cán bộ làm công tác thu hồi đất đã lợi dụng chức quyền áp giá sai cho người dân khi đất của họ thuộc loại này, nhưng áp giá loại khác, chẳng hạn đất ở thì là đất nông nghiệp, đất loại II thì xếp là loại III, IV,v.v..

Bảy là, đất đai thuộc sở hữu toàn dân và Nhà nước là người đại diện cho nhân dân nắm quyền sở hữu. Nếu Nhà nước là chủ sở hữu, người dân chỉ là người sử dụng, thì về đạo lý việc thu hồi đất phải do các cơ quan nhà nước thực hiện. Song trên thực tiễn, rất nhiều địa phương giao việc thu hồi đất cho các chủ doanh nghiệp tiến hành. Các chủ đầu tư vì quyền lợi của mình đã bỏ qua khá nhiều quyền lợi của người dân, hoặc hứa với người dân lúc thu hồi đất rất nhiều vấn đề, song sau thu hồi đất không thực hiện. Nhiều vụ bất ổn xảy ra ở các địa phương thời gian qua, chính là do việc làm này mang lại. Do vậy, cơ quan tiến hành thu hồi đất cần phải xác định lại nhằm bảo đảm đúng quyền lợi cho người bị thu hồi đất.


Tám là, ở một số địa phương, kế hoạch thu hồi đất không gắn với kế hoạch tái định cư. Thông thường muốn thu hồi đất của dân, trước hết phải tính xem sẽ tái định cư cho họ ở đâu. Khi xác định được chỗ tái định cư phải tổ chức xây dựng, sao cho chỗ ở mới phải tốt hơn chỗ ở cũ, sau đó mới đưa dân đến ở .chỉ khi việc tái định cư đã hoàn tất mới được tiến hành thu hồi đất đai. Song, vì không có quy hoạch, kế hoạch nên không ít địa phương vừa thu hồi đất vừa tái định cư cho dân. Các ban quản lý dự án cứ giao cho dân một cục tiền để họ tự xoay xở. Một số nơi, khu tái định cư nhà không ra nhà, kết cấu hạ tầng không có, chính là bắt nguồn từ sự không gắn kết này.

Xem tất cả 232 trang.

Ngày đăng: 05/10/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí