Pháp Luật Về Quyền Yêu Cầu Và Nghĩa Vụ Của Các Chủ Thể Trong Quan Hệ Dân Sự Của Vụ Án Hình Sự

hành vi phạm tội gây ra. Điều này đã được khẳng định tại Hiến pháp 2013 “các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”. Cụ thể hóa qui định của Hiến pháp, BLTTHS 2015 cũng qui định nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân “Khi tiến hành tố tụng, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân”.

Thứ hai, việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự tạo nên sự thống nhất trong việc áp dụng các tình tiết để giải quyết vụ án hình sự có yêu cầu bồi thường thiệt hại, tránh được trường hợp mâu thuẫn về quan điểm giải quyết vụ án giữa Tòa hình sự và Tòa dân sự. Khi vấn đề dân sự được xem xét giải quyết trong vụ án hình sự, người tiến hành tố tụng mà cụ thể ở đây là Hội đồng xét xử sẽ có cái nhìn khách quan, toàn diện về toàn bộ nội dung vụ án, từ đó có thể ra quyết định về việc bồi thường thiệt hại phù hợp, đúng qui định pháp luật; ngược lại, khi vấn đề dân sự không được xem xét giải quyết trong vụ án hình sự thì có thể xảy ra trường hợp Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu bồi thường thiệt hại của nguyên đơn mặc dù trước đó hành vi gây nên thiệt hại cho nguyên đơn đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự, giữa hành vi phạm tội và thiệt hại mà nguyên đơn yêu cầu khởi kiện có mối quan hệ nhân quả với nhau.

Thứ ba, việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự góp phần vào việc xác định sự thật khách quan của vụ án và có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động tố tụng hình sự. Hoạt động tố tụng hình sự qui định trình tự, thủ tục xác định sự thật khách quan của vụ án, chứng minh tội phạm mà kết quả cuối cùng là bản án hình sự kết tội cũng như giải quyết vấn đề trách nhiệm dân sự nếu có sự gây thiệt hại. Vì vậy, việc chứng minh vấn đề dân sự và giải quyết thấu đáo nó thì mới giải quyết tốt trách nhiệm hình sự (nhất là vấn đề trách nhiệm dân sự có ảnh hưởng đến việc định tội và định khung hình phạt) và sẽ nâng cao sức thuyết phục của bản án hình sự.

Thứ tư, khi giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự sẽ tiết kiệm thời gian giải quyết vụ án cho cả cơ quan tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng. Nếu vấn

đề dân sự không được giải quyết trong vụ án hình sự thì người bị thiệt hại sẽ phải khởi kiện theo trình tự thủ tục tố tụng dân sự, họ phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của nguyên đơn dân sự với nhiều thủ tục pháp lí khác nhau, điều này sẽ làm người bị thiệt hại mất rất nhiều thời gian, công sức, tiền bạc. Về phía cơ quan tiến hành tố tụng, Nhà nước cũng sẽ tốn chi phí, nhân lực để giải quyết lại một vấn đề mà lẽ ra đã có cơ sở quyết định ngay khi xét xử phần hình sự.

Thứ năm, vụ án hình sự có phát sinh vấn đề dân sự cần giải quyết sẽ là động lực để người tham gia tố tụng tích cực tham gia tố tụng nhằm bảo vệ quyền lợi của họ, điều này cũng góp phần thúc đẩy nhanh tiến trình giải quyết vụ án hình sự. Bởi vì, người bị thiệt hại sẽ được hưởng lợi từ kết quả xác minh thiệt hại của cơ quan tiến hành tố tụng cũng như sự nhanh chóng của thủ tục tố tụng hình sự trong khi nếu giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự với tư cách là nguyên đơn dân sự tự bản thân người bị thiệt hại phải có trách nhiệm chứng minh cho toàn bộ yêu cầu khởi kiện của họ. Ngược lại, khi người bị thiệt hại tích cực tham gia tố tụng phía cơ quan tiến hành tố tụng cũng gặp nhiều thuận lợi hơn trong quá trình chứng minh thiệt hại thực tế do hành vi phạm tội gây ra, đẩy nhanh tiến trình giải quyết vụ án.

Thứ sáu, việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự là có lợi cho bị cáo bởi vì bị cáo có thể được tính thêm một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự khi tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả. Nếu đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự và Tòa án tuyên là có tội thì các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự có ý nghĩa rất quan trọng đối với bị cáo, nó sẽ là cơ sở để Hội đồng xét xử đưa ra phán quyết về mức hình phạt đối với bị cáo sau khi cân nhắc giữa hành vi phạm tội và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

Thứ bảy, giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự giúp nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ thẩm phán nói riêng và Hội đồng xét xử nói chung, tạo nên sự chuyên nghiệp cho họ trong khi giải quyết cả án hình sự lẫn án dân sự.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 84 trang tài liệu này.

Như đã phân tích, nhiệm vụ trọng tâm của quá trình giải quyết vụ án hình sự là chứng minh tội phạm và xác định người thực hiện hành vi phạm tội, vì vậy không nên mở rộng phạm vi các vấn đề dân sự được kết hợp giải quyết trong vụ án hình sự để tránh trường hợp kéo dài thời gian giải quyết vụ án. Theo quan điểm của tác giả, giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự là việc Tòa án xem xét giải quyết những yêu cầu bồi thường thiệt hại về tài sản, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm do hành vi phạm tội gây ra hoặc có liên quan đến hành vi phạm tội nhưng không thuộc nội dung xử lí vật chứng và việc áp dụng biện pháp tư pháp trong các vụ án hình sự. Hay nói cách khác, việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự chỉ nên giới hạn trong phạm vi trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo qui định tại Chương XXI BLDS 2015 và những thiệt hại này phải do tội phạm gây ra hoặc có liên quan đến hành vi phạm tội. Nếu không có tội phạm thì không đặt ra vấn đề bồi thường thiệt hại. Từ phạm vi các vấn đề dân sự sẽ được giải quyết trong vụ án hình sự đã xác định, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải tiếp tục chứng minh các điều kiện để vấn đề dân sự được xem xét giải quyết, bao gồm: phải có thiệt hại xảy ra, phải có hành vi trái pháp luật (hành vi phạm tội), giữa thiệt hại và hành vi trái pháp luật phải có mối quan hệ nhân quả với nhau. Bên cạnh đó, trong quá trình giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự , Tòa án - chủ thể duy nhất có thẩm quyền giải quyết vấn đề này cần làm rò quan hệ pháp luật tranh chấp là gì, ai là người bị thiệt hại, ai là người có trách nhiệm bồi thường thiệt hại, mức độ thiệt hại xảy ra, yêu cầu của người bị thiệt hại… để từ đó xác định đúng quan hệ pháp luật tranh chấp, tư cách tham gia tố tụng của các chủ thể, yêu cầu bồi thường của người bị thiệt hại. Muốn như vậy, về mặt nội dung, khi giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự Tòa án phải vận dụng những qui định của BLDS 2015 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Tuy nhiên, về mặt hình thức Tòa án cần áp dụng những qui định của BLTTHS 2015 trên cơ sở kết hợp với một số qui định của BLTTDS 2015.

Khi vấn đề dân sự được xem xét giải quyết trong vụ án hình sự sẽ có ý nghĩa rất lớn đối với bị cáo, giúp bị cáo có thêm một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự,

Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai - 5

ảnh hưởng đến phán quyết của Hội đồng xét xử trong việc đưa ra mức hình phạt đối với hành vi phạm tội. Mặt khác, đối với bị cáo - là người có trách nhiệm bồi thường thiệt hại việc kết hợp giải quyết này sẽ giúp bị cáo tự ý thức được hậu quả thiệt hại do mình gây ra, từ đó hình thành nên trách nhiệm trong việc khắc phục thiệt hại cho người bị thiệt hại. Bên cạnh đó, việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự còn giúp vụ án được giải quyết triệt để hơn, tiết kiệm được thời gian, công sức, tiền bạc của những người bị thiệt hại và các cơ quan tiến hành tố tụng. Sẽ không cần thiết nếu có hai loại cơ quan áp dụng hai thủ tục tố tụng khác nhau để chỉ giải quyết một vấn đề thuộc về dân sự mà lẽ ra đã có cơ sở quyết định ngay khi xét xử phần hình sự; đồng thời giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự khắc phục được những khó khăn trong việc tổ chức phiên tòa dân sự, do bị cáo (có nghĩa vụ bồi thường) đang phải chịu hình phạt. Về phía người bị thiệt hại nếu vấn đề dân sự không được xem xét giải quyết trong vụ án hình sự thì họ phải thực hiện đầy đủ những nghĩa vụ của một nguyên đơn dân sự trong vụ án dân sự với nhiều thủ tục pháp lí phức tạp, mất rất nhiều thời gian, công sức, tiền bạc.

Tóm lại, việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự sẽ mang lại nhiều lợi ích cho bị cáo và người bị thiệt hại cũng như các cơ quan tiến hành tố tụng; giúp vụ án hình sự được xem xét giải quyết toàn diện, từ đó nâng cao uy tín của các cơ quan tiến hành tố tụng nói riêng và pháp luật nói chung, góp phần vào công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

Chương 2

QUI ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ DÂN SỰ TRONG VỤ ÁN HÌNH SỰ

2.1. Pháp luật về quyền yêu cầu và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ dân sự của vụ án hình sự

2.1.1. Pháp luật hiện hành về quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại, bồi hoàn tài sản trong quan hệ dân sự của vụ án hình sự

Năm 2015, Quốc hội đã thông qua BLHS và BLTTHS và đánh dấu một bước tiến quan trọng trong tư duy luật pháp hình sự; tiếp tục thể hiện tinh thần chủ động phòng ngừa và kiên quyết đấu tranh chống tội phạm, góp phần bảo vệ chủ quyền, an ninh của đất nước, bảo vệ chế độ, bỏa vệ quyền con người, quyền công dân, lợi ích của Nhà nước và tổ chức, bảo vệ và thúc đẩy nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế của nước ta. Trong đó, BLTTHS 2015 vẫn tiếp tục khẳng định giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự là một trong những nguyên tắc cơ bản của pháp luật tố tụng hình sự. Cụ thể tại Điều 30 BLTTHS đã quy định:

“ Việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự được tiến hành cùng với việc giải quyết vụ án hình sự. Trường hợp vụ án hình sự giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại, bồi hoàn mà chưa có điều kiện chứng minh và không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án hình sự thì vấn đề dân sự có thể tách ra để giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự”

Bên cạnh đó, trong các biện pháp tư pháp áp dụng cho người có hành vi phạm tội quy định tại Điều 46 và Điều 48 BLHS 2015 vấn tiếp tục áp dụng biện pháp tư pháp; Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại; buộc công khai xin lỗi. Buộc: “Người phạm tội phải trả lại tài sản đã chiếm đoạt cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp, phải sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại vật chất đã được xác định do hành vi phạm tội gây ra”

Về nội dung thì những điều luật quy định tại BLHS và BLTTHS năm 2015 được đánh giá là đã có nhiều đột phá quan trọng, góp phần triển khai thi hành các

quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, đặc biệt thể hiện tinh thần của Hiến pháp năm 2013 như tại điều 8 BLTTHS 2015 quy định việc “ tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân” , các cam kết quốc tế của Việt Nam về tôn trọng, công nhận, bảo vệ và đảm bảo quyền con người, quyền công dân, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế như trong phần thứ tám “ Hợp tác Quốc tế” BLTTHS 2015, gồm chương XXXV, tù điều 491- 496 và chương XXXVI, từ diều 497- 508. Ngoài ra, chủ thể là đối tương được giải quyết vấn đề dân sự, trong BLTTHS 2015 sử dụng thuật ngữ bị hại chứ không phải là người bị hại như BLTTHS 2003 bởi vì theo BLTTHS 2015 thì bị hại không chỉ là con người cụ thể mà bao gồm cả cơ quan, tổ chức, như vậy phạm vi bị hại theo BLTTHS 2015 đã được mở rộng hơn so với BLTTHS 2003. Cụ thể tại khoản 1, điều 62 BLTTHS 2015:”Bị hại là cá nhân trực tiêp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra.”. Khoản 2, điều 62 BLTTHS 2015, quy định trình tự thủ tục thực hiện quyền và nghĩa vụ của bị hại và người đại diện hợp pháp của bị hại trong việc đòi bồì thường thiệt hại. Tương tự, tại Điều 63 và 65 BLTTHS 2015 nêu khái niêm và quy định trình tự thủ tục thực hiện quyền và nghĩa vụ của nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan và người đại diện hợp pháp của họ trong việc yêu cầu bồì thường thiệt hại

2.1.2. Pháp luật về nghĩa vụ của chủ thể trong quan hệ dân sự của vụ án hình sự

Bị cáo

Khoản 1 Điều 61 BLTTHS 2015 qui định: “Bị cáo là người hoặc pháp nhân đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử”.

BLTTHS 2003 qui định chỉ có cá nhân, con người cụ thể mới là bị cáo nhưng BLTTHS 2015 đã qui định bị cáo bao gồm cả thể nhân và pháp nhân. Việc thay đổi này là phù hợp với BLHS 2015 bởi vì một trong những định hướng quan trọng khi sửa đổi, bổ sung BLHS lần này được xác định là “Đổi mới tư duy về tội phạm và hình phạt, về cơ sở của trách nhiệm hình sự, khắc phục những bất cập, hạn chế trong thực tiễn, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong

tình hình mới” mà một biểu hiện rò nét của định hướng này chính là việc bổ sung vào BLHS chế định trách nhiệm hình sự của các pháp nhân là các tổ chức kinh tế khi thực hiện một số tội phạm do BLHS quy định.

Bị cáo là người thực hiện hành vi phạm tội và gây ra những thiệt hại cho các chủ thể có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại nên bị cáo phải chịu trách nhiệm bồi thường đối với những thiệt hại do hành vi của mình gây ra, trừ trường hợp bị cáo là người mất năng lực hành vi dân sự, người chưa thành niên, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi gây thiệt hại.

Ngoài việc sửa đổi khái niệm bị cáo cho phù hợp với BLHS 2015, để đảm bảo tốt hơn quyền lợi của bị cáo khi Tòa án giải quyết yêu cầu bồi thường thiệt hại của chủ thể có quyền yêu cầu, so với BLTTHS 2003 thì BLTTHS 2015 qui định bổ sung một số quyền cho bị cáo như: quyền được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ; quyền đề nghị giám định, định giá tài sản theo qui định của pháp luật; quyền đề nghị thay đổi người định giá tài sản, người dịch thuật; quyền đề nghị triệu tập người làm chứng, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người giám định, người định giá tài sản, người tham gia tố tụng khác và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tham gia phiên tòa; quyền đưa ra chứng cứ; quyền trình bày ý kiến về những chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội; quyền đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi hoặc tự mình hỏi người tham gia phiên tòa nếu được chủ tọa đồng ý; quyền xem biên bản phiên tòa, yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản phiên tòa.

Về nghĩa vụ, BLTTHS 2015 bổ sung qui định bị cáo chỉ có thể bị áp giải khi vắng mặt không vì lí do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan.

Bị đơn dân sự

Khoản 1 Điều 64 BLTTHS qui định “Bị đơn dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức mà pháp luật qui định phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại”.

Tuy không phải là người gây thiệt hại cho nguyên đơn dân sự hoặc bị hại, nhưng theo qui định của pháp luật thì bị đơn dân sự phải có trách nhiệm bồi thường

cho bị hại hoặc nguyên đơn dân sự. Những cá nhân có thể trở thành bị đơn dân sự bao gồm: cha, mẹ hoặc người giám hộ của bị cáo là người chưa thành niên đã gây ra thiệt hại. Cơ quan, tổ chức được pháp luật qui định có trách nhiệm phải bồi thường thiệt hại do cán bộ, nhân viên đơn vị mình gây ra khi làm nhiệm vụ. Bị đơn dân sự được người có thẩm quyền tiến hành tố tụng xác định tư cách tham gia tố tụng thông qua giấy triệu tập tham gia tố tụng.

Để đảm bảo quyền của bị đơn dân sự khi Tòa án giải quyết yêu cầu bồi thường thiệt hại, BLTTHS 2015 đã qui định bổ sung một số quyền cho họ như sau: quyền được thông báo, giải thích quyền và nghĩa vụ; quyền chấp nhận hoặc bác bỏ một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn dân sự; quyền đưa ra chứng cứ; quyền trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; quyền yêu cầu giám định, định giá tài sản theo qui định của pháp luật; quyền đề nghị thay đổi người định giá tài sản, người dịch thuật; quyền đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi người tham gia phiên tòa; xem biên bản phiên tòa; tự bảo vệ, nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình.

Bên cạnh việc bổ sung một số quyền thì BLTTHS 2015 cũng qui định bổ sung về nghĩa vụ của bị đơn dân sự là phải chấp hành quyết định, yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Qui định này nhằm đảm bảo sự chấp hành của bị đơn dân sự trong quá trình tham gia tố tụng đối với các quyết định, yêu cầu của cơ quan, người tiến hành tố tụng.

Người có nghĩa vụ liên quan đến vụ án

Người có quyền lợi liên quan đến vụ án, được quy định tại khoản 1 Điều 65 BLTTHS 2015 đã nêu rò khái niệm thế nào là người có nghĩa vụ liên quan đến vụ án, theo đó thì đây là người mà hành vi của họ có liên quan đến tội phạm do bị cáo thực hiện và theo pháp luật họ phải có trách nhiệm về hành vi của mình. Người có nghĩa vụ liên quan đến vụ án được người có thẩm quyền tiến hành tố tụng xác định tư cách tham gia tố tụng thông qua giấy triệu tập.

Để đảm bảo quyền của người có nghĩa vụ liên quan đến vụ án khi Tòa án giải quyết yêu cầu bồi thường thiệt hại, BLTTHS 2015 qui định bổ sung một số quyền cho họ như: quyền được thông báo, giải thích quyền và nghĩa vụ; quyền đưa

Xem tất cả 84 trang.

Ngày đăng: 24/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí