Quy Định Về Vấn Đề Bảo Đảm Quyền Con Người Đối Với Người Bị Tạm Giữ, Tạm Giam Trong Pháp Luật Tố Tụng Hình Sự Một Số Nước

chống tra tấn và các hình thức trừng phạt hay đối xử tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm, 1984; tập hợp các nguyên tắc về bảo vệ tất cả những người bị giam hay bị cầm tù dưới bất cứ hình thức nào, 1988; các quy tắc hành động của cán bộ thi hành pháp luật, 1979; các nguyên tắc cơ bản về tính độc lập của Tòa án, 1985…Các văn kiện này được trình bày một cách khá ngắn gọn, súc tích (UDHR chỉ có 30 điều, ICCPR có 53 điều, Các quy tắc Bắc Kinh có 40 điều…) nhưng đã có sự điều chỉnh hiệu quả trên thực tế.

Hiện nay, Việt Nam đã là thành viên của một số Công ước quốc tế như: ICCPR (tham gia vào năm 1982); CRC (tham gia vào năm 1990); Công ước về không áp dụng thời hiệu tố tụng đối với tội ác chiến tranh và tội chống nhân loại, 1968 (tham gia 1983)…

Một nội dung quan trọng trong luật tố tụng hình sự quốc tế về bảo đảm QCN của người bị tạm giữ, tạm giam được biểu hiện ở chỗ pháp luật quy định rất đầy đủ và cụ thể các quyền tố tụng cơ bản của họ. Đó là các quyền sau đây:

- Quyền không bị tra tấn và quyền được đối xử nhân đạo (Điều 5 UDHR; Điều 7, 10 ICCPR; Công ước chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục)

- Quyền tự do và an toàn cá nhân hay còn gọi là quyền không bị bắt, giam giữ tùy tiện (Điều 9 UDHR, Điều 9 ICCPR)

- Quyền không bị phân biêt đối xử, được thừa nhận và bình đẳng trước pháp luật (điều 1,2,6,7,8 UDHR; Điều 2,3,16,26 ICCPR)

- Quyền được bảo vệ sự riêng tư hay còn gọi là quyền về đời tư (Điều 12 UDHR; Điều 17 ICCPR)

- Quyền về xét xử công bằng (Điều 10, 11 UDHR; Điều 11, 14, 15 ICCPR)

Quyền này lần đầu tiên được đề cập tại Điều 10, 11 UDHR, sau đó được khẳng định và cụ thể hóa trong các Điều 11, 14, 15 ICCPR, trong đó thì Điều 14 ICCPR là có vai trò quan trọng . Điều 14 ICCPR đã cụ thể hóa các

quyền bình đẳng trước Tòa án; quyền được suy đoán vô tội; quyền được áp dụng thủ tục đặc biệt của người chưa thành niên; quyền kháng cáo; quyền bồi thường oan sai…và một loạt các bảo đảm tố tụng tối thiểu khác

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 136 trang tài liệu này.

Điều 10 Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền quy định bất cứ ai bị buộc tội đều có quyền được đưa ra xét xử trước một Tòa án độc lập và không thiên vị, có quyền bảo vệ mình, chống lại mọi sự buộc tội. Điều 11 Tuyên ngôn quy định bất kỳ ai bị cáo buộc trong thực hiện hành vi phạm tội được coi là không có tội cho đến khi lỗi của họ được chứng minh bằng phiên tòa công khai theo thủ tục pháp luật quy định và tại phiên tòa họ được bảo đảm quyền bào chữa. Không ai bị buộc tội và phải chịu hình phạt bởi hành vi mà luật hình sự quốc gia hoặc quốc tế không coi là tội phạm tại thời điểm hành vi đó được thực hiện [47, tr 103].

1.4. QUY ĐỊNH VỀ VẤN ĐỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI ĐỐI VỚI NGƯỜI BỊ TẠM GIỮ, TẠM GIAM TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ MỘT SỐ NƯỚC

Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm giữ, tạm giam cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội - 4

1.4.1. Quy định về vấn đề bảo đảm quyền con người đối với người

bị tạm giữ, tạm giam trong pháp luật tố tụng hình sự Liên bang Nga

Bộ luật tố tụng hình sự Liên bang Nga được DUMA quốc gia thông qua ngày 22/11/2001 (đã qua nhiều lần sửa đổi từ năm 2002 đến năm 2006). Bộ luật gồm 6 phần, 19 chương, 57 mục. Nhiệm vụ của TTHS Liên bang Nga cũng thể hiện rò mục tiêu bảo vệ lợi ích của con người, bảo vệ lợi ích hợp pháp của các nhân, tổ chức là nạn nhân của tội phạm, không hạn chế các quyền tự do cá nhân không có căn cứ và trái pháp luật, đồng thời xác định trách nhiệm của CQĐT, VKS, Tòa án trong khi tiến hành tố tụng phải tôn trọng các quyền của người tham gia tố tụng. Theo quy định tại Điều 6 BLTTHS Liên bang Nga thì TTHS có ba nhiệm vụ chính: Một là, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân và tổ chức, của những người bị thiệt hại do tội phạm gây ra; hai là, bảo đảm không ai bị buộc tội, bị kết án, bị hạn chế các

quyền tự do một cách không có căn cứ và trái pháp luật; ba là, việc truy cứu trách nhiệm hình sự, áp dụng hình phạt một cách công bằng với người phạm tội, đồng thời không được truy cứu trách nhiệm hình sự và áp dụng hình phạt đối với người không phạm tội, minh oan cho bất cứ người nào bị truy cứu trách nhiệm hình sự một cách không có căn cứ án [53, Điều 6].

Theo BLTTHS Liên bang Nga, chủ thể tham gia TTHS gồm: Tòa án, các chủ thể tham gia tố tụng thuộc bên buộc tội, các chủ thể tham gia tố tụng thuộc bên bào chữa và những chủ thể khác tham gia TTHS. Trong đó: người bị tình nghi, bị can, người đại diện hợp pháp của người bị tình nghi và của bị can là người chưa thành niên, người bào chữa, bị đơn dân sự… thì thuộc nhóm các chủ thể tham gia TTHS thuộc bên bào chữa. Tùy theo từng đối tượng sẽ có vai trò khác nhau trong TTHS mà pháp luật Liên bang Nga có những quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ của họ tham gia giải quyết vụ án.

Bộ luật tố tụng hình sự Liên bang Nga không có định cụ thể và khái niệm cũng như địa vị pháp lý của người bị tạm giữ, tạm giam mà chỉ có khái niệm về người bị tình nghi. Theo quy định tại khoản 1 Điều 46 BLTTHS Liên bang Nga: "Người bị tình nghi là người: 1) Đối với họ đã khởi tố vụ án hình sự theo những căn cứ và theo thủ tục quy định tại Mục 20 Bộ luật này; 2) Bị bắt giữ theo quy định tại Điều 91 và 92 Bộ luật này; 3) Bị áp dụng biện pháp ngăn chặn trước khi khởi tố bị can theo quy định tại điều 100 Bộ luật này" [53, tr. 26].

Tại Khoản 11 Điều 5 BLTTHS Liên bang Nga đưa ra khái niệm về việc tạm giữ người bị tình nghi: Tạm giữ người bị tình nghi là biện pháp cưỡng chế tố tụng do CQĐT ban đầu, Điều tra viên, Dự thẩm viên hoặc Kiểm sát viên áp dụng trong thời hạn không quá 48 giờ kể từ thời điểm người bị tình nghi thực hiện tội phạm thực tế bị tạm giữ [53, tr. 6]. Bên cạnh đó, tại Khoản 15 Điều 5 đưa ra khái niệm cụ thể về thời điểm thực tế bị tạm giữ: Là thời điểm thực tế tước tự do người bị tình nghi thực hiện tội phạm được tiến hành theo thủ tục quy định của BLTTHS Liên bang Nga [53, tr. 7].

Từ những quy định trên có thể thấy, người bị tạm giữ trong TTHS Liên bang Nga là người bị tình nghi bị bắt theo quy định tại Điều 91, 92 BLTTHS Liên bang Nga, bị tạm giữ không quá 48 giờ kể từ thời điểm người bị tình nghi thực hiện tội phạm thực tế bị tạm giữ và đối với họ phải có quyết định của Tòa án.

Tại Điều 5 Khoản 42 BLTTHS Liên bang Nga: "Tạm giam là tình trạng của một người bị bắt giữ do bị tình nghi là đã thực hiện tội phạm hoặc là bị can đang áp bị áp dụng biện pháp ngăn chặn với hình thức là tạm giam tại nhà cách ly để điều tra hoặc ở một nơi khác theo quy định của Luật liên bang" [53, Điều 5, Khoản 42].

Điều 108 BLTTHS Liên bang Nga quy định tạm giam là một biện pháp ngăn chặn được áp dụng theo quyết định của Tòa án đối với người bị tình nghi hoặc bị can về tội mà luật hình sự quy định hình phạt tù trên 2 năm trong trường hợp không thể áp dụng biện pháp ngăn chặn khắc ít nghiêm khắc hơn. Trong những trường hợp đặc biệt, biện pháp ngăn chặn tạm giam có thể được áp dụng đối với người bị tình nghi, bị can về tội có mức hình phạt tù đến 2 năm, nếu có một trong các tình tiết sau (1) Người bị tình nghi hoặc bị can không có nơi cư trú thường xuyên trên lãnh thổ Liên bang Nga; (2) Không xác định được chính xác nhân thân của họ; (3) Họ đã vi phạm biện pháp ngăn chặn khác áp dụng với họ trước đó; (4) Họ đã trốn tránh CQĐT hoặc Tòa án. Việc áp dụng biện pháp tạm giam đối với người bị tình nghi hoặc bị can là người chưa thành niên với tư cách là biện pháp ngăn chặn chỉ có thể được áp dụng trong trường hợp họ bị tình nghi hoặc bị khởi tố về việc thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Trong những trường hợp đặc biệt biện pháp ngăn chặn này có thể được áp dụng đối với người bị tình nghi hoặc bị can là người chưa thành niên phạm tội nghiêm trọng [53, Điều 108].

Pháp luật TTHS Liên bang Nga quy định việc bảo đảm QCN trong đó có bảo đảm quyền của người bị tạm giữ, tạm giam dựa trên các bình diện cơ bản sau:

Thứ nhất, Luật TTHS Liên bang Nga quy định chức năng, mục đích, nhiệm vụ của TTHS là (1) bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân và tổ chức bị thiệt hại do tội phạm gây nên; Bảo vệ cá nhân tránh khỏi sự buộc tội, sự kết án và sự hạn chế các quyền và tự do một cách trái pháp luật và vô căn cứ; (2) Không được truy tố hình sự những người vô tội, miễn hình phạt đối với họ, minh oan cho những người bị truy tố hình sự một cách vô căn cứ [53, Điều 6].

Thứ hai, Luật TTHS Liên bang Nga quy định QCN trong đó có quyền của người bị tạm giữ, tạm giam như sau:

Quyền được tôn trọng danh dự và nhân phẩm của cá nhân. Điều 9 BLTTHS Liên bang Nga quy định trong quá trình TTHS nghiêm cấm thực hiện những hành vi và ban hành những quyết định hạ thấp danh dự của người tham gia TTHS cũng như có những xử sự hạ thấp nhân phẩm của con người hoặc gây nguy hiểm cho tính mạng, sức khỏe của con người.

Quyền bất khả xâm phạm của cá nhân. Điều 10 BLTTHS Liên bang Nga quy định không ai có thể bị bắt giữ do bị tình nghi thực hiện tội phạm hoặc bị bắt giam nếu không có những căn cứ hợp pháp do Bộ luật này quy định. Như vậy, một người chỉ có thể bị bắt giam nếu có quyết định của Tòa án. Không ai có thể bị tạm giữ quá 48 tiếng trước khi có quyết định của Tòa án. Trường hợp người bị áp dụng biện pháp ngăn chặn với hình thức tạm giam thì phải được giam giữ trong điều kiện tính mạng và sức khỏe của họ không bị đe dọa. Quyền bí mật thư tín, điện thoại và các cuộc đàm thoại, bưu phẩm,

điện tín và các hình thức liên lạc khác. Điều 13 BLTTHS Liên bang Nga quy định việc hạn chế quyền công dân đối với bí mật thư tín, điện thoại và các cuộc đàm thoại, bưu chính, điện tín và các hình thức liên lạc khác chỉ được thực hiện trên cơ sở quyết định của Tòa án.

Quyền suy đoán vô tội. Điều 14 BLTTHS Liên bang Nga quy định một người được coi là không có tội chừng nào tội của họ không được chứng minh

theo đúng trình tự, thủ tục quy định và không bị Tòa án tuyên phạt bằng bản án đã có hiệu lực pháp luật. Người bị tình nghi hoặc bị can không có nghĩa vụ chứng minh sự vô tội của mình. Vấn đề chứng minh tội phạm và bác bỏ những chứng cứ nhằm bảo vệ cho người bị tình nghi hoặc bị can thuộc trách nhiệm của bên buộc tội. Mọi nghi ngờ về tội phạm của bị can, nếu không được loại trừ theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này của định thì phải được giải thích có lợi cho bị can.

Quyền được bào chữa. Điều 16 BLTTHS Liên bang Nga quy định người bị tình nghi và bị can được bảo đảm quyền bào chữa. Họ có thể tự mình bào chữa hoặc nhờ sự giúp đỡ của người bào chữa hoặc người đại diện hợp pháp. Họ được bảo đảm thực hiện bào chữa bằng tất cả những phương pháp và biện pháp mà Bộ luật này không cấm. Sự tham gia của người bào chữa trong hoạt động TTHS là bắt buộc nếu người bị tình nghi, bị can không từ chối sự tham gia của người bào chữa; người bị tình nghi, bị can là người chưa thành niên; người bị tình nghi, bị can có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần.

Thứ ba, Luật TTHS Liên bang Nga quy định các căn cứ không khởi tố vụ án hình sự, đình chỉ vụ án hình sự và truy tố hình sự trong các trường hợp từ Điều 24 đến Điều 28 BLTTHS Liên bang Nga. Trong đó, không được khởi tố vụ án nếu như không có sự kiện phạm tội, đã hết thời hiệu truy tố, không có yêu cầu của người bị hại nếu vụ án đó chỉ được khởi tố bởi người bị hại; đình chỉ vụ án hình sự do các bên tự hòa gian; Đình chỉ vụ án do sự chuyển biến của tình hình; Đình chỉ việc truy tố hình sự do ăn năn hối cải.

Thứ tư, Luật TTHS Liên bang Nga quy định về minh oan trong TTHS (các điều 133 - 139 BLTTHS) trong đó quy định rò quyền được minh oan bao gồm ba quyền: được bồi thường thiệt hại về vật chất, về tinh thần và được phục hồi các quyền. Cơ quan hoặc người tiến hành tố tụng phải ra quyết định công nhận người được minh oan và gửi cho họ thông báo với sự giải thích về thủ tục bồi thường thiệt hại [6, tr. 21].

1.4.2. Quy định về vấn đề bảo đảm quyền con người đối với người bị tạm giữ, tạm giam trong pháp luật tố tụng hình sự Trung Quốc

Trong TTHS của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (Trung Quốc), các đối tượng tham gia vào quan hệ TTHS đều là chủ thể tham gia tố tụng. Khoản 2 Điều 82 Luật TTHS Trung Quốc quy định "Người tham gia tố tụng là các bên đương sự bao gồm: người bị hại, tư tố viên, nghi can, bị cáo, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự…" [54, Điều 82, Khoản 2]. Mặc dù luật không quy định khái niệm người bị tạm giữ, tạm giam hay cụ thể hóa người bị tạm giữ, tạm giam là một chủ thể tham gia tố tụng như trong BLTTHS Việt Nam nhưng trên cơ sở những quy định của Luật TTHS Trung Quốc, trong chương 4 về các biện pháp ngăn chặn có thể khẳng định người bị tạm giữ, tạm giam cũng là một chủ thể tham gia TTHS Trung Quốc. Tại Điều 64, 65, 69 Luật TTHS Trung Quốc quy định:

Điều 64: Khi tạm giữ người, cơ quan công an phải có lệnh tạm giữ. Trong vòng 24 giờ sau khi tạm giữ người, phải thông báo nguyên nhân tạm giữ và nơi giam giữ cho gia đình hoặc cơ quan nơi làm việc của người bị tạm giữ biết, trừ trường hợp việc thông báo gây trở ngại cho hoạt động điều tra hoặc không có cách nào để thông báo cho những người này.

Điều 65: Cơ quan công an phải tiến hành thẩm vấn người bị tạm giữ trong vòng 24 giờ sau khi tạm giữ. Xét thấy không cần thiết tạm giữ thì phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ và ra lệnh trả tự do. Nếu cơ quan công an thấy cần bắt người bị tạm giữ khi chưa có đủ chứng cứ thì có thể cho phép người bị tạm giữ có người bảo lãnh trong gia đoạn chờ xét xử hoặc giám sát nơi cư trú của người này.

Điều 69: Nếu thấy cần phải bắt giam người đang bị tạm giữ thì trong vòng 3 ngày sau khi tạm giữ, cơ quan công an phải đề nghị VKSND thẩm tra phê chuẩn.

Trong thời hạn 7 ngày sau khi nhận được đề nghị phê chuẩn bắt giam của cơ quan công an, VKSND phải ra quyết định phê chuẩn hay không phê

chuẩn. Nếu VKSND không phê chuẩn việc bắt giam, cơ quan công an phải thả ngay người bị bắt và thông báo kết quả cho VKSND mà không được trì hoãn [54, Điều 9].

Như vậy, người bị tạm giam trong TTHS Trung Quốc bắt buộc phải có quyết định phê chuẩn của VKS. Trong trường hợp VKS không phê chuẩn bắt giam thì cơ quan công an phải thả ngay người bị bắt. Ngay cả trong trường hợp thấy quyết định không phê chuẩn bắt giam của VKSND là không chính xác thì cơ quan công an có thể yêu cầu xem xét lại tuy nhiên vẫn phải thả ngay người đang bị tạm giam. Điều 70 Luật TTHS Trung Quốc quy định:

Nếu thấy quyết định không phê chuẩn bắt giam của VKSND là không chính xác, cơ quan công an có thể yêu cầu xem xét lại, nhưng phải thả ngay người đang bị tạm giam. Nếu đề nghị không được chấp nhận, có thể đề nghị VKS cấp trên trực tiếp xem xét. VKSND cấp trên phải kiểm tra ngay vụ việc và quyết định liệu có thay đổi hay không thay đổi và thông báo cho VKSND cấp dưới và cơ quan công an thi hành quyết định của mình [54, Điều 70].

Đồng thời, Luật TTHS Trung Quốc cũng quy định bảo đảm một số QCN trong đó có quyền của người bị tạm giữ, tạm giam như sau:

Bảo đảm quyền không bị coi là có tội khi chưa có bản án có hiệu lực của tòa án. Điều 12 Luật TTHS Trung Quốc quy định "Không ai bị coi là có tội nếu không bị xét xử và kết án bởi một Tòa án nhân dân theo quy định của pháp luật" [54, Điều 12]. Đây cũng là điểm tương đồng giữa luật pháp Trung Quốc và luật pháp Việt Nam.

Bảo đảm quyền được bào chữa. Một người bị tình nghi hình sự có quyền chỉ định một người bào chữa như luật sư bào chữa vào bất kỳ thời điểm nào kể từ thời điểm bị CQĐT thẩm vấn lần đầu hay thời điểm phải chịu các biện pháp bắt buộc. Trong trường hợp người bị tình nghi hình sự đang bị giam giữ, luật sư bào chữa có thể do người giám hộ hay người thân chỉ định đại

Xem tất cả 136 trang.

Ngày đăng: 02/07/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí