Giải pháp xử lý nợ xấu tại các ngân hàng thương mại Việt Nam - 2


1. Tính thiết thực của đề tài‌‌

LỜI MỞ ĐẦU


Trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay, ngành Ngân hàng nói chung, hệ thống Ngân hàng Thương mại nói riêng, đóng vai trò quan trọng trong việc cung ứng vốn cho nền kinh tế, là cầu nối các doanh nghiệp với thị trường. Trong đó hoạt động tín dụng là một trong những hoạt động chính của các ngân hàng thương mại. Cùng với xu hướng phát triển chung trong lĩnh vực ngân hàng, hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam đã mở rộng phạm vi hoạt động của mình trong đó hoạt động tín dụng vẫn tiếp tục giữ vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển của các ngân hàng bên cạnh các hoạt động kinh doanh khác. Một điều không thể phủ nhận rằng hiện tại và trong tương lai lợi nhuận từ hoạt động tín dụng luôn chiếm tỷ trọng chủ yếu trong lợi nhuận của Ngân hàng . Tuy nhiên, hoạt động này luôn tiềm ẩn những rủi ro, đặc biệt là ở các nước kinh tế đang phát triển như Việt Nam. Hệ thống Ngân hàng Thương mại Việt Nam còn non kém, hệ thống thông tin thiếu minh bạch, không đầy đủ, trình độ quản trị rủi ro còn hạn chế, tính chuyên nghiệp của nhân viên ngân hàng chưa cao….Vì vậy việc xuất hiện các khoản nợ xấu là điều không thể tránh khỏi trong hoạt động tín dụng của các Ngân hàng Thương mại

Quá trình toàn cầu hóa hiện nay đang diễn ra ngày càng nhanh càng làm tăng thêm mức độ phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế trên thế giới. Ngành ngân hàng cũng không ngoại lệ trước xu thế tất yếu này. Năm 2007, khủng hoảng tín dụng tại Mỹ xảy ra, khởi nguồn cho cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Ảnh hưởng của cuộc đại suy thoái này bao trùm “bóng đen kinh tế” lên tất cả các quốc gia, trong đó có Việt Nam. Với việc tỷ lệ nợ xấu gia tăng trong giai đoạn năm 2008 – 2012, tín dụng tăng trưởng nóng… đã báo động về những nguy cơ, rủi ro trong hoạt động tín dụng của hệ thống Ngân hàng Thương mại Việt Nam.

Dù nợ xấu luôn tồn tại hiển nhiên trong hoạt động của các ngân hàng, kể cả các Ngân hàng hàng đầu thế giới. Chúng ta cần hạn chế sự xuất hiện của nợ xấu, bằng cách phối hợp các phương pháp xử lý nợ xấu khác nhau, qua đó duy trì nợ xấu ở một tỷ lệ chấp nhận được, phù hợp với môi trường kinh doanh và chiến lược phát triển của mỗi

ngân hàng. Kiểm soát tốt nợ xấu là công việc cần thiết phải làm đối với các ngân hàng, song song với phát triển hoạt động tín dụng.

Bài toán về xử lý nợ xấu đã và đang được các nhà quản trị ngân hàng nghiên cứu nhằm hoàn thiện trong điều kiện đặc trưng của kinh tế Việt Nam. Nghiên cứu được hướng đi của nợ xấu từ đó sẽ tìm ra được những nguyên nhân đã dẫn đến việc phát sinh nợ xấu. Từ đó đưa ra những biện pháp, chính sách phù hợp trong việc điều tiết các hoạt động tín dụng nhằm đảm bảo được nợ xấu ở mức quy định của ngành. Từ đó đảm bảo vững chắc cho sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam cũng như các chính sách, định hướng của Nhà nước đạt được hiệu quả lâu dài.

Nợ xấu đang có xu hướng gia tăng trong các năm gần đây. Do đó giải quyết vấn đề nợ xấu là đòi hỏi cấp thiết của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay. Xuất phát từ những lý do nêu trên, tôi quyết định chọn đề tài “Giải pháp xử lý nợ xấu tại các ngân hàng thương mại Việt Nam” với hy vọng đóng góp một phần vào công tác quản lý nợ xấu tại ngân hàng.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 104 trang tài liệu này.

2. Mục đích của luận văn


Giải pháp xử lý nợ xấu tại các ngân hàng thương mại Việt Nam - 2

Nghiên cứu khái niệm về nợ xấu, xử lý nợ xấu trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng Thương mại (NHTM), cách phân loại nợ xấu và các nhân tố ảnh hưởng đến nợ xấu, ảnh hưởng của nợ xấu đến Ngân hàng và nền kinh tế.

Phân tích và đánh giá thực trạng nợ xấu, công tác xử lý nợ xấu đang tồn tại trong hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay.

Trên cơ sở lý luận và thực trạng nợ xấu đang diễn ra và kinh nghiệm xử lý nợ xấu của một số Ngân hàng Thương mại các nước trên thế giới đang áp dụng, luận văn đề xuất các giải pháp xử lý nợ xấu phù hợp với hoàn cảnh thực tế của ngành ngân hàng Việt Nam.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:


Đối tượng nghiên cứu: những vấn đề, cơ sở lý luận về nợ xấu và thực tiễn xử lý nợ xấu tại hệ thống Ngân hàng Thương mại Việt Nam và các vấn đề có liên quan, từ đó đưa ra các giải pháp nhằm giải quyết vấn đề nợ xấu đang tồn tại hiện nay.

Phạm vi nghiên cứu: trọng tâm nghiên cứu là phân tích nợ xấu của các NHTM Việt Nam trong giai đoạn 2008 – 2012, các nhân tố tác động đến nợ xấu dẫn đến việc nợ xấu có xu hướng gia tăng trong giai đoạn hiện nay, đi sâu vào nghiên cứu các giải pháp xử lý nợ xấu đang tồn tại trong hệ thống NHTM Việt Nam.‌

4. Phương pháp nghiên cứu


Luận văn này được nghiên cứu dựa trên phương pháp kết hợp giữa định tính và định lượng.

Phương pháp định tính: sử dụng các phương pháp hệ thống, tổng hợp, phân tích, so sánh, thống kê, dựa trên nền tảng kiến thức kinh tế học, tài chính – ngân hàng…kết hợp giữa lý thuyết với thực tiễn nhằm làm sáng tỏ mục tiêu nghiên cứu của luận văn, nêu lên những nội dung cơ bản về vấn đề nợ xấu và xử lý nợ xấu, phân tích tình hình nợ xấu hiện nay và đề xuất các giải pháp nhằm xử lý nợ xấu hiệu quả.

Phương pháp định lượng: ứng dụng các phương pháp của kinh tế lượng, sử dụng phần mềm eview để xây dựng mô hình hồi quy các nhân tố ảnh hưởng đến nợ xấu.

5. Bố cục của luận văn


Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn được chia làm 3 chương, cụ thể như sau:

Chương 1: Lý luận cơ bản về xử lý nợ xấu tại Ngân hàng thương mại. Chương 2: Thực trạng xử lý nợ xấu tại các Ngân hàng Thương mại Việt Nam Chương 3: Giải pháp xử lý nợ xấu tại các Ngân hàng Thương mại Việt Nam


CHƯƠNG 1 : LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ XỬ LÝ NỢ XẤU TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI‌

1.1 NỢ XẤU TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI‌‌

1.1.1 Khái niệm về nợ xấu (NPLs)


Theo định nghĩa chính thức của IMF, một khoản nợ được xác định là nợ xấu khi việc chi trả tiền lãi và/hoặc gốc quá hạn từ 91 ngày trở lên, hoặc ít nhất 90 ngày kể từ ngày tiền lãi đã được vốn hóa, hoặc nợ được gia hạn hoặc việc thanh toán dòng tiền trễ hạn dưới 90 ngày nhưng có những lý do xác đáng để nghi ngờ khả năng thanh toán đầy đủ.

Tại Việt Nam, nợ xấu theo khoản 6 điều 2 của Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của TCTD ban hành kèm theo quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 của NHNN Việt Nam là “các khoản nợ thuộc các nhóm nợ dưới tiêu chuẩn (nhóm 3), nợ nghi ngờ (nhóm 4), và nợ có khả năng mất vốn (nhóm 5)”.

Nợ xấu (hay còn gọi là nợ có vấn đề, nợ không lành mạnh, nợ khó đòi) có các đặc trưng sau:1

Khách hàng không thực hiện nghĩa vụ trả nợ với ngân hàng (trả lãi, vốn gốc) theo đúng thời hạn quy định

Ngân hàng không thể thu nợ (bao gồm lãi và/hoặc gốc) từ khách hàng do nhiều nguyên nhân (tình hình tài chính của khách hàng giảm, khách hàng bỏ trốn…)

Tài sản đảm bảo (thế chấp, cầm cố, bảo lãnh…) được định giá có giá trị bảo đảm không đủ trang trải nợ gốc và lãi.

Về thời gian các là các khoản nợ quá hạn có thời hạn ít nhất là 91 ngày


1 Giáo trình Quản trị Ngân Hàng Thương Mại, Trần Huy Hoàng, 2011


1.1.2 Phân loại nợ xấu‌


Nếu căn cứ vào tài sản đảm bảo: nợ xấu của ngân hàng có thể chia thành các nhóm như sau:1

Nợ xấu có tài sản đảm bảo: Nợ tồn đọng ngân hàng đã thu giữ tài sản dưới hình thức gán, xiết nợ; Nợ tồn đọng ngân hàng chưa thu giữ tài sản như nợ có tài sản liên quan đến vụ án chờ xét xử, nợ có tài sản đảm bảo đã quá hạn trên 360 ngày.

Nợ xấu không có tài sản đảm bảo và không có đối tượng để thu: Nợ xóa do thiên tai chưa có nguồn và chưa có hạch toán nội bảng; nợ khoanh đối với những doanh nghiệp đã giải thể, phá sản; nợ khoanh đối với doanh nghiệp thuộc các vụ án; nợ khoanh do thiên tai của hộ sản xuất…

Nợ xấu không có tài sản đảm bảo nhưng con nợ vẫn còn tồn tại, đang hoạt động: Nợ khoanh doanh nghiệp khó thu hồi; nợ tín dụng chính sách còn có khả năng thu hồi; nợ quá hạn trên 360 ngày.

Ngoài ra còn có nhóm nợ là những khoản nợ không thu được nhưng không đủ điều kiện để khoanh, xóa.

Theo quyết định 493/2005/QĐ-NHNN và được sửa đổi bổ sung bằng quyết định 18/2007/QĐ-NHNN nợ xấu của tổ chức tín dụng bao gồm các nhóm nợ từ nhóm 3 đến nhóm 5 như sau:

Nhóm 3 (nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm:

- Các khoản nợ quá hạn từ 91 ngày đến 180 ngày;


- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu, trừ các khoản nợ điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu phân loại vào nhóm 2 theo quy định tại điểm b khoản này;



1 Giáo trình Quản trị Ngân Hàng Thương Mại, Trần Huy Hoàng, 2011


- Các khoản nợ được miễn hoặc giảm lãi do khách hàng không đủ khả năng trả lãi đầy đủ theo hợp đồng tín dụng;

- Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 3 theo quy định. Nhóm 4 (nợ nghi ngờ) bao gồm:

- Các khoản nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày;


- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu.

- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai;


- Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 4 theo quy định; Nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn) bao gồm:

- Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày;


- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở lên theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu;

- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai quá hạn theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần thứ hai;

- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ ba trở lên, kể cả chưa bị quá hạn hoặc đã quá hạn;

- Các khoản nợ khoanh, nợ chờ xử lý;


- Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 5 theo quy định.


Theo quy định hiện nay, tỷ lệ này phải nhỏ hơn hoặc bằng 3%


Ngoài ra, Ủy ban chuẩn mực kế toán quốc tế đã đưa ra một định nghĩa mới về nợ xấu theo chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IFRS) và IAS 39. Ủy ban này cũng khuyến khích quan điểm này nên được áp dụng tại các nước đang phát triển vào đầu năm 2005.


Về cơ bản IAS 39 chỉ chú trọng đến khả năng hoàn trả của khoản vay bất luận thời gian đã quá hạn 90 ngày hay chưa quá hạn. Phương pháp để đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng thường là phương pháp phân tích dòng tiền tương lai hoặc xếp hạng khoản vay (khách hàng). Hệ thống này được coi là chính xác về mặt lý thuyết, nhưng việc áp dụng thực tế gặp nhiều khó khăn do số liệu chưa đồng nhất. Vì vậy, Uỷ ban Chuẩn mực Kế toán quốc tế đang chỉnh sửa lại.

Hiện tại các NHTM trong nước vẫn tiến hành phân loại nợ theo tiêu chí quá hạn trên 90 ngày. Cách phân loại này có ưu điểm là đơn giản nhưng có các nhược điểm như: Chỉ chú ý đến chất lượng về mặt hình thức, không phản ánh đúng thực chất của chất lượng tín dụng; Không khuyến khích cán bộ tín dụng giám sát thường xuyên các khoản vay, trích lập dự phòng không đúng hoặc không đầy đủ…

1.1.3 Nguyên nhân dẫn đến nợ xấu‌


1.1.3.1 Nguyên nhân khách quan


Môi trường tự nhiên: những biến động lớn về thời tiết, khí hậu gây ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất kinh doanh, đặc biệt nhất là lĩnh vực sản xuất nông nghiệp. Một yếu tố như thiên tai, hạn hán… đều ảnh hưởng đến hoạt động của các doanh nghiệp và khả năng trả nợ của Ngân hàng.

Môi trường chính trị, kinh tế, xã hội: với tư cách là trung gian tài chính, rủi ro trong hoạt động của các Ngân hàng thương mại ảnh hưởng trực tiếp bởi trình độ phát triển của nền kinh tế, đặc điểm thể chế chính trị, chính sách tài khóa…Một sự thay đổi của các chính sách quản lý kinh tế, do hành lang pháp lý chưa phù hợp, do biến động thị trường trong và ngoài nước, cung cầu hàng hóa thay đổi, một sự thay đổi trong tốc độ tăng trưởng GDP, lạm phát… cũng khiến doanh nghiệp lâm vào tình trạng khó khăn, từ đó ảnh hưởng tới hoạt động Ngân hàng.


Dù là yếu tố tự nhiên hay yếu tố chính trị, kinh tế đều dẫn đến hậu quả là khách hàng không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ với ngân hàng

1.1.3.2 Nguyên nhân chủ quan‌


Nguyên nhân từ phía khách hàng vay

Là nguyên nhân nội tại bên trong của mỗi khách hàng dẫn đến khách hàng sử dụng vốn vay kém hiệu quả hoặc thất thoát, ảnh hưởng đến khả năng trả nợ, bao gồm:

- Khà năng tự chủ tài chính kém.

- Năng lực điều hành hoạt động kém

- Hệ thống quản trị kinh doanh không hiệu quả.

- Trình độ quản lý của khách hàng yếu kém

- Khách hàng thiếu thiện chí trong việc trả nợ vay ngân hàng.

Nguyên nhân từ phía ngân hàng cho vay

Trình độ yếu kém của đội ngũ cán bộ ngân hàng. Cán bộ ngân hàng không chấp hành nghiêm túc chế độ tín dụng và các điều kiện cho vay.

Chính sách và quy trình cho vay chưa chặt chẽ, chưa có quy trình quản trị rủi ro hữu hiệu, chưa chú trọng đến phân tích khách hàng, xếp loại rủi ro tín dụng để tính toán điều kiện cho vay và khả năng trả nợ. Đối với cho vay doanh nghiệp nhỏ và cá nhân, quyết định cho vay của ngân hàng chủ yếu dựa trên kinh nghiệm, chưa áp dụng công cụ chấm điểm tín dụng

Năng lực dự báo, phân tích và thẩm định tín dụng, phát hiện và xử lý khoản vay có vấn đề của cán bộ tín dụng còn yếu, nhất là đối với các ngành đòi hỏi hiểu biết chuyên môn cao dẫn đến sai lầm trong quyết định cho vay. Mặt khác, cũng có thể quyết định cho vay đúng đắn nhưng do thiếu kiểm tra, giám sát sau khi cho vay dẫn đến khách hàng sử dụng vốn sai mục đích nhưng ngân hàng không ngăn chặn kịp thời.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 27/06/2022