Kinh Nghiệm Xử Lý Nợ Xấu Của Một Số Nước Trên Thế Giới 1


suất, vật nuôi không bị dịch bệnh, khỏe mạnh… thì khả năng thu hồi vốn từ người đi vay là rất lớn. Nhưng nếu môi trường tự nhiên không thuận lợi, chịu ảnh hưởng thiên tai, lũ lụt, hạn hán thì dự án sẽ thất bại, không thu hồi được vốn, nợ xấu phát sinh.

Môi trường pháp lý

Hành lang pháp lý phải thuận lợi, rò ràng và đủ mạnh thì sẽ góp phần làm minh bạch quy trình tín dụng, lành mạnh hoạt động của các doanh nghiệp. Nếu luật về thủ tục thế chấp, tịch thu tài sản, phá sản ngân hàng không được chặt chẽ thì sẽ dễ dẫn đến những tác động tiêu cực tới nền kinh tế do các khoản nợ xấu gây nên. Muốn cơ chế pháp lý có hiệu quả thì cần phải có những biện pháp hợp lý, chặt chẽ thống nhất để tránh tình trạng thủ tục rườm rà, phức tạp, kéo dài quá lâu.

1.3.2 Nhóm nhân tố nội tại ngân hàng.‌


Nhân tố chủ quan từ phía ngân hàng bao gồm cơ chế quản lý tín dụng và công nghệ ngân hàng,cơ cấu tổ chức.

Thứ nhất, cơ chế quản lý tín dụng của ngân hàng có thể được biểu hiện qua quy trình nghiệp vụ ngân hàng, cơ cấu cho vay, đạo đức và trình độ chuyên môn của cán bộ tín dụng, công tác kiểm tra nội bộ ngân hàng. Nếu cơ chế quản lý tín dụng được thực hiện một cách nghiêm túc, đúng đắn thì sẽ mang lại hiệu quả cho ngân hàng. Ngược lại, công tác quản lý không được thực hiện đúng mực tới các bộ phận, phòng ban của ngân hàng, không tạo được sự thống nhất trong toàn bộ hệ thống sẽ làm giảm hiệu quả xử lý nợ xấu, nợ xấu không những giảm mà còn có xu hướng tăng thêm

Thứ hai, công nghệ ngân hàng là một hệ thống quan trọng trong công tác điều hành phát triển ngân hàng mang lại lợi ích cho khách hàng, ngân hàng. Công nghệ tốt, thường xuyên cập nhật phần mềm chuyên môn hiện đại sẽ giúp ngân hàng đánh giá tốt tình hình tài chính của khách hàng, giúp phát hiện sớm rủi ro trong các khoản vay.


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 104 trang tài liệu này.

Thứ ba, nếu ngân hàng được cơ cấu tổ chức chặt chẽ, thống nhất hợp lý giữa các cấp; tăng cường chất lượng quản lý, công tác phê duyệt hồ sơ vay thì sẽ làm giảm nợ xấu trong quá trình cấp tín dụng, giảm thiệt hại cho ngân hàng. Và ngược lại, nếu như tổ chức lỏng lẻo sẽ tạo điều kiện cho nhân viên tín dụng cùng cấp trên hợp thức hóa hồ sơ, làm giả mạo giấy tờ tín dụng, làm phát sinh nợ xấu.

Nhân tố chủ quan từ phía khách hàng vay :

Giải pháp xử lý nợ xấu tại các ngân hàng thương mại Việt Nam - 4

Khi doanh nghiệp vay tiền ngân hàng để thực hiện, mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, với một dự án đầy khả thi và với tư duy quản lý, kinh doanh tiên tiến thì sẽ mang lại hiệu quả cho dự án, đảm bảo trả đủ cả gốc và cả lãi cho ngân hàng. Nếu quản lý kinh doanh kém, đầu tư không hợp lý thì dù với một dự án đầy triển vọng cũng không mang lại lợi nhuận và làm gia tăng nợ xấu cho ngân hàng.

Đa số các doanh nghiệp khi vay vốn ngân hàng đều có phương án kinh doanh cụ thể và khả thi. Số lượng doanh nghiệp sử dụng vốn sai mục đích, cố ý lừa đảo ngân hàng để chiếm đoạt vốn không nhiều. Nhưng khi phát sinh thì để lại những hậu quả rất nặng, liên quan đến uy tín của cán bộ, làm ảnh hưởng đến các doanh nghiệp trong ngành

1.4 KINH NGHIỆM XỬ LÝ NỢ XẤU CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI1

1.4.1 Malaysia‌


Công ty quản lý tài sản quốc gia (Danaharta): thành lập tháng 6/1998 trên cơ sở Đạo luật 587, có chức năng giải quyết nợ xấu của các tổ chức tài chính, do Bộ Tài chính quản lý. Vốn ban đầu do Bộ Tài chính cấp, được phát hành trái phiếu do Chính phủ bảo lãnh; có quyền áp đặt việc thanh lý tài sản và quyền chỉ định quản trị viên đặc biệt tại tổ chức mà họ mua nợ. Danaharta đã thành công trong việc xử lý NPLs. Danaharta đã mua 23.1 tỷ RM, tương đương 31.8% nợ xấu trong hệ thống ngân hàng, đưa nợ xấu


1 www.tapchitaichinh.vn


của Malaysia về khoảng 12.4% vào giữa năm 2009. Việc mua bán nợ được thực hiện trong vòng 6 tháng, nhanh hơn cả mục tiêu đề ra. Tuy nhiên các tổ chức tài chính chấp nhận lỗ khi bán nợ cho AMC. Mức chiết khấu bình quân là 57%

Công ty tái cấp vốn ngân hàng (Danamodal): Là một công ty con của Ngân hàng Trung ương Malaysia, được thành lập ngày 10/8/1998 theo Kế hoạch Khôi phục kinh tế quốc dân do Hội đồng hành động Kinh tế Quốc gia ban hành. Nguồn vốn bao gồm 3 tỉ RM do NHTW cấp, 10 tỉ RM vốn trái phiếu phát hành trong nước và 1 tỉ RM vốn nước ngoài. Mục đích là tái cấp vốn cho hệ thống ngân hàng. Trước khi tái cấp vốn, công ty này tiến hành đánh giá thực trạng hệ thống ngân hàng. Danamodal đã bơm 6.4 tỷ RM vào 10 tổ chức tài chính để loại bỏ đi rủi ro hệ thống trong ngành ngân hàng. Kết quả, hệ số an toàn vốn tối thiểu (CAR) tăng lên 12.7%.

1.4.2 Hàn quốc


Công ty quản lý tài sản Hàn quốc (KAMCO) được thành lập từ năm 1962 với quy chế là công ty con của Ngân hàng Phát triển Hàn quốc. Đến năm 1999, nguyên tắc hoạt động của KAMCO được sửa đổi để mở rộng chức năng của KAMCO thành ngân hàng xử lý nợ xấu của các tổ chức tài chính và những doanh nghiệp nợ nhiều, đồng thời thành lập Quỹ quản lý nợ xấu (NPAMF). Vốn của NPAMF năm 1998 là 20,573 nghìn tỉ Won. Ngoài việc quản lý NPAMF, KAMCO còn được vay tiền của Bộ Tài chính và lập ra 3 công ty liên doanh tái cấu trúc doanh nghiệp (CRC) để mua bán nợ. Theo đó, KAMCO mua các khoản nợ xấu từ những ngân hàng với giá thị trường (36% mệnh giá NPLs). KAMCO sẽ thanh toán bằng trái phiếu do công ty phát hành được đảm bảo bởi Chính phủ nhằm giảm thiểu việc ghi bằng tiền mặt. Bằng cách này, các khoản nợ xấu của những ngân hàng được thay thế bằng tài sản an toàn, cụ thể là trái phiếu được đảm bảo bởi Chính phủ.

Với những chính sách đúng đắn của Chính phủ Hàn Quốc, nợ xấu ở khu vực ngân hàng giảm xuống nhanh chóng, từ 8.3% từ cuối năm 1998 xuống còn 2.3% vào cuối năm


2002 và đến năm 2005 chỉ còn 1%. Hai mươi ngân hàng vượt qua được cơn khủng hoảng đã có lợi nhuận, cung cấp dịch vụ ngân hàng tốt hơn và mở rộng quy mô. Tháng 11 năm 2002, KAMCO đã xử lý 2/3 khoản nợ trên tổng số nợ đã mua.

1.4.3 Indonesia‌


Cơ quan tái cấu trúc ngân hàng (IBRA) và Cơ quan tái cấu trúc nợ (IDRA) được thành lập năm 1998 để điều phối việc xử lý nợ xấu của hệ thống ngân hàng và doanh nghiệp. Trên cơ sở chiến lược tái cấp vốn ngân hàng, các ngân hàng được đánh giá và phân loại thành 3 nhóm theo tỷ lệ vốn tối thiểu (CAR):

- Nhóm có CAR < -25% bị buộc phải đóng cửa;


- Nhóm có CAR > 4% được tiếp tục hoạt động và phải tăng CAR lên 8%;


- Nhóm có CAR từ -25% đến 4% được đưa vào chương trình tái cấp vốn để đạt mức 4%, với điều kiện chủ sở hữu ngân hàng phải góp ít nhất 20% và Chính phủ góp 80%. Sau 3 năm chủ sở hữu ngân hàng có thể mua lại cổ phần của Chính phủ, nếu không thì sau 5 năm, Chính phủ bán lại cổ phần cho nhà đầu tư khác.

Tiền để IBRA tái cấp vốn cho các ngân hàng là từ nguồn phát hành trái phiếu chính phủ. Indonesia phải mất 50% giá trị GDP cho việc xử lý nợ xấu đi kèm với đó là hàng loạt các ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng phải phá sản. Nhờ vậy, Indonesia đã giữ được tỷ lệ lạm phát dưới 20% và giữ thâm hụt ngân sách dưới 1% GDP trong những năm cuối thế kỷ 20. Khoảng 50% nợ xấu đã được xử lý

1.4.4 Thái Lan‌


Năm 2001, Thái Lan thành lập một công ty quản lý tài sản tập trung có tên Thai Asset Management Corporation (TAMC) với cơ chế hoạt động khá hệ thống:

- Cơ chế hoạt động: Nguồn vốn hoạt động của TAMC chủ yếu từ phát hành trái phiếu chiếm 96%, còn lại 4% là hỗ trợ từ Chính phủ. TAMC thực hiện phát hành trái phiếu có thời hạn 10 năm với sự đảm bảo của FIDF để mua nợ xấu. Tài sản được chuyển


giao sẽ định giá theo giá trị tài sản bảo đảm. Việc xử lý nợ xấu sẽ dựa trên nguyên tắc chia sẻ lời – lỗ giữa TAMC và các TCTD bán nợ.

- Giải pháp xử lý: Hầu hết nợ xấu của các ngân hàng chuyển sang TAMC quản lý xuất phát từ các doanh nghiệp bất động sản và sản xuất. Đối với các khoản vay có thế chấp không còn khả năng trả nợ, TAMC thực hiện tịch thu tài sản thế chấp và bán thanh lý để hoàn trả phần vốn vay dựa trên nguyên tắc chia sẻ . Đối với các khoản vay mà TAMC nhận thấy còn khả năng trả nợ, TAMC sẽ chủ động phối hợp với các cơ quan đại diện cho các khu vực kinh tế để đưa ra các giải pháp khôi phục lại hoạt động sản xuất kinh doanh của các khách hàng đó, tạo nguồn vốn trả nợ.

Nhờ những biện pháp của chính phủ Thái Lan mà nợ xấu của Ngân hàng giảm xuống nhanh chóng từ 33% trong năm 1998 chỉ còn khoảng 11% đến năm 2005. Hệ số ROA của các Ngân hàng cũng được cải thiện đáng kể vào khoảng 0.3% năm 2005 (so với mức âm -4% vào năm 1998).

1.4.5 Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam‌


Dựa theo bài học kinh nghiệm của các nước trên thế giới, ta có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc xử lý nợ xấu trong khu vực NHTM:

Thứ nhất, chính phủ và các ngân hàng cùng hợp tác xử lý triệt để các khoản nợ xấu đang tồn tại vì trong nền kinh tế đang khủng hoảng, một ngân hàng mất khả năng thanh toán chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ hệ thống tài chính của quốc gia.

Thứ hai, hệ thống ngân hàng cần được giám sát chặt chẽ hơn, cần được nâng cao hiệu quả quản lý, điều hành và tăng cường tính minh bạch trong các hoạt động kinh doanh.

Thứ ba, chính phủ phải kết hợp tái cấu trúc khu vực ngân hàng và tái cấu trúc khu vực doanh nghiệp. Theo kinh nghiệm của Hàn Quốc thì khi khu vực ngân hàng


khỏe mạnh sau khi đã được cơ cấu lại sẽ giúp cho việc cơ cấu khu vực doanh nghiệp dễ dàng hơn.

Thứ tư, việc thành lập cơ quan xử lý nợ xấu chuyên biệt trực thuộc Chính phủ (có thể ủy quyền cho NHNN thực hiện quản lý) là điều hết sức cần thiết. Cơ quan này có thể xử lý nợ xấu bằng nhiều phương thức:Xóa nợ thông qua việc thay thế bằng các trái phiếu do chính phủ phát hành, hoán đổi các khoản nợ của tập đoàn kinh tế và DNNN với các NHTM cho vay thành vốn cổ phẩn, chứng khoán hóa các khoản nợ…

Ngoài ra, các cơ quan quản lý tài sản (AMC) của các NHTM đóng vai trò quan trọng trong việc xử lý nợ xấu. Dựa trên kinh nghiệm của các nước thì vấn đề đặt ra là phải xây dựng cơ chế hoạt động hợp lý cho các AMC, đảm bảo được 5 nguyên tắc:

Hỗ trợ các NHTM thu hồi được vốn đã đầu tư vào nợ xấu nhanh chóng nhưng không gây ra tổn thất quá lớn cho các NHTM.

Việc thu hồi nợ xấu không làm trầm trọng thêm tình hình thị trường bất động sản (đa phần các khoản vay đều được tài trợ bằng bất động sản)

Giảm thiểu tối đa thiệt hại của các NHTM Giảm thiểu tối đa chi phí hoạt động

Tách biệt hoạt động xử lý nợ xấu và hoạt động kinh doanh của NHTM.

1.5 CÁC KẾT QUẢ VỀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU XỬ LÝ NỢ XẤU TẠI CÁC NHTM TRƯỚC ĐÂY

Nghiên cứu của Akiko Terada và Hagiwara (2004)


Nghiên cứu của Akiko Terada và Hagiwara tập trung vào việc phân tích vai trò của các AMC (Công ty xử lý nợ) trong việc xử lý nợ xấu. Tác giả phân tích vai trò, cách thức hoạt động, xử lý nợ xấu của các loại hình AMC bao gồm AMC quốc gia, AMC trực thuộc các TCTD và các tổ chức AMC công cộng.


Nghiên cứu còn tập trung vào kinh nghiệm xử lý nợ xấu của các nước châu Á trong khủng hoảng năm 1998 (nổi bật là 4 nước Hàn Quốc, Indonesia, Malaysia, Thái Lan).

Nhóm tác giả cho rằng việc xử lý nợ xấu của các AMC không chỉ phụ thuộc vào nhu cầu tín dụng, các yếu tố chi phí mà còn phụ thuộc cả hành vi đạo đức. Nhóm tác giả đã sử dụng dữ liệu nợ xấu tại Thái Lan trong giai đoạn 1999 – 2003 để kiểm tra giả thuyết trên. Kết quả cho thấy chỉ có các AMC trực thuộc các TCTD và các AMC công cộng chịu ảnh hưởng của các hành vi đạo đức đến quá trình xử lý nợ xấu, còn TAMC đã xử lý rất tốt nợ xấu và ít chịu ảnh hưởng của hành vi đạo đức

Nghiên cứu của Xiaofen Chen (2001)


Nghiên cứu của Xiaofen Chen bao gồm 3 phần về hoạt động của các Ngân hàng trong đó phần 3 phân tích tình hình nợ xấu, xem xét đến các yếu tố tác động đến nợ xấu của các Ngân hàng tại EU trong giai đoạn từ 1990 – 1999.

Tác giả Xiaofen Chen có sử dụng mô hình hồi quy các nhân tố tác động đến nợ xấu là: badt,i = α0 + α1 * loant,i + α2 * rothast,i + α3 * econt,i + α4 * mmrt,i + α5 * d + ut,i

Mô hình hồi quy đo lường các nhân tố như dư nợ (loan), lãi suất (mmr), tốc độ tăng

trưởng của GDP (econ), rothas (thu nhập thuần ngoài lãi/tổng tài sản), tính cạnh tranh của từng ngân hàng (d) đến nợ xấu ngân hàng

Mô hình của tác giả Xiaofen được tiến hành thực nghiệm tại 128 ngân hàng lớn tại 15 nước EU đánh giá các tác động của các nhân tố lên nợ xấu ngân hàng

Theo kết quả nghiên cứu của tác giả, các biến loan, rothas, mmr, và d có tác động cùng chiều với biến bad, trong đó biến loan có tác động mạnh nhất đến biến bad với α=0.967. Tuy nhiên, biến econ lại có tác động ngược chiều với biến bad.

Vì yếu tố đạo đức khó đo lường chính xác tại Việt Nam nên bài luận văn đề xuất sử dụng mô hình của Xiaofen Chen nhằm đo lường các yếu tố tác động đến nợ xấu. Bài luận văn cũng xem xét việc đưa thêm yếu tố lạm phát vào mô hình đo lường.


KẾT LUẬN CHƯƠNG 1‌


Ngành ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp vốn cho các chủ thể cần vốn. Hàng hóa kinh doanh của ngân hàng là “tiền”, một hàng hóa rất đặc biệt. Vì vậy, hoạt động kinh doanh của ngân hàng luôn tìm ẩn rất nhiều rủi ro, vấn đề. Nợ xấu là một trường hợp cụ thể

Về cơ bản, nợ xấu là một vấn đề không khỏi tránh khỏi trong bất kỳ nền kinh tế nào của các nước. Đặc biệt, trong giai đoạn tình hình kinh tế gia tăng, thì nợ xấu lại càng có xu hướng gia tăng nhanh chóng. Nợ xấu ảnh hưởng đến ngân hàng, bản thân các doanh nghiệp và lớn hơn nữa, nợ xấu ảnh hưởng đến nền kinh tế, đến các chính sách vĩ mô, thể chế chính trị của quốc gia đó.

Vì vậy việc tìm hiểu các khái niệm cơ bản về nợ xấu, phân loại nợ xấu, nguyên nhân… sẽ giúp chúng ta có được cái nhìn toàn diện về nợ xấu tại các ngân hàng, cụ thể là tại các NHTM, để có thể lý giải được tình trạng nợ xấu có chiều hướng xấu đi tại các NHTM Việt Nam trong thời gian qua

Việc nghiên cứu các phương pháp xử lý nợ xấu của các nước trên thế giới giúp chúng ta có được những kinh nghiệm và bài học để vận dụng vào việc xử lý nợ xấu tại Việt Nam.

Xem tất cả 104 trang.

Ngày đăng: 27/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí