hàng quan trọng của chi nhánh, là sản phẩm đi kèm để thu hút khách hàng có số dư tiền gửi cao.
BIDV-HCM đẩy mạnh cho vay có TSĐB và giảm dần cho vay không có TSĐB, nhằm đảm bảo an toàn tín dụng, hạn chế không để phát sinh nợ quá hạn, nợ khó đòi. Dư nợ có tài sản đảm bảo là chủ yếu là bất động sản (như: nhà ở, đất ở) bình quân khoảng trên 50%/tổng dư nợ có tài sản đảm bảo, còn lại là dư nợ có tài sản đảm bảo là động sản (như xe ôtô), giấy tờ có giá (như sổ tiết kiệm, kỳ phiếu, trái phiếu, cổ phiếu,…) hoặc các tài sản khác có giá trị. Tỷ trọng của dư nợ có TSĐB còn rất cao, cho nên chất lượng tín dụng bán lẻ vẫn nằm trong tầm kiểm soát.
2.2.4.3. Chất lượng tín dụng bán lẻ tại BIDV-HCM giai đoạn 2008 – 09/2012:
Bảng 2.13: Chất lượng tín dụng bán lẻ tại BIDV-HCM
Đơn vị: triệu đồng
2008 | 2009 | 2010 | 2011 | 30/09/2012 | ||||||
Dư nợ | Tỷ trọng | Dư nợ | Tỷ trọng | Dư nợ | Tỷ trọng | Dư nợ | Tỷ trọng | Dư nợ | Tỷ trọng | |
Nợ nhóm 2 | 198 | 0.13% | 468 | 0.20% | 3,561 | 0.84% | 8,836 | 2.35% | 12,073 | 2.40% |
Nợ xấu | 39 | 0.03% | 137 | 0.06% | 249 | 0.06% | 435 | 0.12% | 1,332 | 0.26% |
Tổng dư nợ | 155,441 | 229,671 | 422,777 | 375,830 | 502,261 |
Có thể bạn quan tâm!
- Cơ Cấu Nguồn Vốn Huy Động Theo Thành Phần Kinh Tế
- Quy Trình Và Hệ Thống Xếp Hạng Tín Dụng Bán Lẻ Tại Ngân Hàng Tmcp
- Tình Hình Cho Vay Cầm Cố/chiết Khấu Giấy Tờ Có Giá Tại Bidv-Hcm
- Định Hướng Chiến Lược Phát Triển Của Ngân Hàng Tmcp Đầu Tư Và Phát Triển Việt Nam - Chi Nhánh Thành Phố Hồ Chí Minh Trong Thời Gian Tới
- Giải Pháp Thuộc Về Ngân Hàng Tmcp Đầu Tư Và Phát Triển Việt Nam - Chi Nhánh Thành Phố Hồ Chí Minh
- Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Cán Bộ Quan Hệ Khách Hàng Và Xây Dựng Tiêu Chuẩn Xếp Loại Cán Bộ Quan Hệ Khách Hàng
Xem toàn bộ 132 trang tài liệu này.
(Nguồn: Báo cáo dư nợ tín dụng bán lẻ tại BIDV-HCM năm 2008-09/2012)
Trong những năm vừa qua, BIDV-HCM đã tích cực hạn chế rủi ro rín dụng, hạn chế các khoản nợ xấu phát sinh, đặc biệt là trong TDBL. Tỷ lệ nợ xấu của hoạt động tín dụng bán lẻ tương đối thấp, chủ yếu tập trung vào những khoản vay tín chấp. Nợ nhóm 2 tăng đáng kể trong giai đoạn 2010 – 30/09/2012. Lý do nền kinh tế khó khăn, doanh nghiệp sản xuất còn nhiều hàng tồn kho không giải phóng được, sản xuất ngưng trệ, ảnh hưởng đến nguồn thu nhập dùng để trả nợ của nhân viên. Tuy nhiên tỷ lệ nợ xấu và nợ nhóm 2 chiếm tỷ lệ nhỏ và nằm trong giới hạn cho phép của ngân hàng. Bên cạnh đó BIDV-HCM luôn cố gắng nhắc nhở, đôn đốc khách hàng trả nợ và có biện pháp hỗ trợ cũng như xử lý đối với những trường hợp nợ quá hạn nhằm kiểm soát tỷ lệ nợ xấu và nợ nhóm 2.
Đi đôi với vấn đề tăng trưởng tín dụng bán lẻ, việc nâng cao chất lượng cho vay với cơ cấu dư nợ hợp lí, đa dạng hóa tính năng của các loại sản phẩm là hết sức cần thiết. BIDV đã từng bước thực hiện định hướng phát triển hoạt động ngân hàng bán lẻ, trong đó có tín dụng bán lẻ, xây dựng lộ trình phấn đấu trở thành NHTM hiện đại hàng đầu ở Việt Nam trong việc cung cấp các sản phẩm dịch vụ ngân hàng bán lẻ.
2.2.5. Những kết quả đạt được, hạn chế và nguyên nhân trong hoạt động tín dụng bán lẻ tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh
2.2.5.1. Những kết quả đạt được trong hoạt động tín dụng bán lẻ tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh
Thị trường ngân hàng trên địa bàn TP.HCM đang diễn ra một sự cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng. Đặc biệt, trong những năm gần đây, nhận thức được ưu điểm của các dịch vụ ngân hàng bán lẻ, hầu hết các NHTM đều nhắm đến đối tượng khách hàng cá nhân, tăng cường cơ cấu lại nguồn khách hàng theo hướng tăng trưởng nhanh và bền vững. Thực hiện đúng các chỉ đạo điều hành của NHNN cũng như BIDV, BIDV-HCM chủ động và ứng xử linh hoạt, kịp thời triển khai các biện pháp nhằm giữ vững quy mô, ngăn chặn nguồn vốn sụt giảm, cũng như kiểm soát tốt hoạt động tín dụng, quản lý chặt chẽ cân đối giữa huy động và cho vay đảm bảo hoạt động có hiệu quả. Hoạt động TDBL nói riêng với việc phát triển ngày càng đa dạng các sản phẩm TDBL đã có những thành tựu đáng khích lệ:
- Dư nợ TDBL tăng trưởng mạnh và có xu hướng tiếp tục tăng cao. Đến 30/09/2012, dư nợ tín dụng bán lẻ đạt 502 tỷ đồng, chiếm 4.08% tổng dư nợ, tăng
41.4 tỷ đồng (khoảng 12,7%) so với cùng kỳ năm 2011. Đó là nhờ vào việc nắm bắt được nhu cầu tiêu dùng của người dân ngày càng nâng cao về chất lượng, BIDV- HCM đã không ngừng cải tiến, đẩy mạnh chính sách cấp tín dụng bán lẻ vào đối tượng khách hàng cá nhân, đồng thời vẫn đảm bảo được mức độ an toàn tín dụng cho Chi nhánh.
- Thị trường ngày càng được mở rộng, khách hàng ngày càng đa dạng. Chính sự tăng trưởng không ngừng cả về quy mô lẫn chất lượng tín dụng của BIDV-HCM đã chứng tỏ được ngân hàng ngày càng thu hút được nhiều khách hàng, thị trường của ngân hàng ngày càng được mở rộng, đặc biệt là đối với thị trường người tiêu dùng rộng lớn trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
- Sản phẩm tín dụng bán lẻ tại BIDV-HCM ngày càng hoàn thiện, đa dạng kết hợp với các loại hình khuyến mãi hỗ trợ kèm theo. Sản phẩm đa dạng càng tạo sự hấp dẫn thu hút nhiều đối tượng khách hàng cũng đồng nghĩa với sự đa dạng hóa đối tượng khách hàng, giúp cho ngân hàng hạn chế được rủi ro khi tập trung vào một nhóm khách hàng truyền thống, tạo nên tính năng động và linh hoạt trong hoạt động cho vay của ngân hàng. Đây là một mục tiêu quan trọng trong bối cảnh hiện nay khi các ngân hàng cạnh tranh với nhau ngày càng gay gắt và khốc liệt. Giúp cho sự tồn tại, phát triển của BIDV-HCM, tăng tính cạnh tranh về tín dụng bán lẻ với các NHTM, góp phần đẩy mạnh tăng trưởng tín dụng bán lẻ.
- BIDV-HCM đã thực hiện theo quy trình cấp TDBL mới mang tính chuyên sâu và độc lập, tách bạch rò ràng nhiệm vụ và trách nhiệm của các phòng ban đồng thời thực hiện việc kiểm soát, quản lý rủi ro ngay trong quy trình từng bước được cải thiện tạo hành lang pháp lý cho việc triển khai tín dụng được an toàn, hiệu quả.
- BIDV có thương hiệu, bề dày lịch sử và kinh nghiệm trong phục vụ các khách hàng doanh nghiệp lớn, các khách hàng này có sẽ tác động tốt đến sự phát triển hoạt động TDBL kết hợp với sản phẩm dịch vụ, như là dịch vụ thanh toán lương qua ngân hàng, mở thẻ ATM đi kèm với sản phẩm tín dụng tiêu dùng tín chấp, thấu chi, thẻ tín dụng, thấu chi... tạo điều kiện phát triển các gói sản phẩm hỗ trợ cho hoạt động ngân hàng bán lẻ nói chung và TDBL nói riêng.
- Chính sách lãi suất cho vay đối với khách hàng cá nhân của BIDV-HCM luôn được cập nhật từ thị trường phù hợp với quy định của BIDV và Nhà nước nhằm tạo sự hấp dẫn, thu hút nhiều người, cạnh tranh được với các ngân hàng trên cùng địa bàn.
- Quy mô và chất lượng kinh doanh của hệ thống mạnh cả về lượng và chất nhằm mở rộng địa bàn hoạt động, tiếp cận khách hàng tốt hơn để đẩy mạnh hoạt
động dịch vụ ngân hàng bán lẻ. Việc mở rộng vá phát triển các kênh phân phối mới (mạng lưới ATM, POS/EDC, Homebanking, Directbanking,…) tạo tiện ích gia tăng cho khách hàng và giúp khách hàng dễ dàng tiếp cận với dịch vụ ngân hàng, làm thương hiệu BIDV ngày càng trở nên quen thuộc với người dân.
- Đội ngũ nhân viên có trình độ chuyên môn cao. BIDV-HCM đang trẻ hóa đội ngũ cán bộ nhân viên trên 350 người có trình độ chuyên môn, có kỹ năng, kinh nghiệm trong nghiệp vụ ngân hàng, nhanh chóng tiếp cận với kiến thức mới.
- Hạ tầng công nghệ thông tin được chú trọng, hỗ trợ đắc lực cho công tác phát triển nghiệp vụ, khai thác thông tin và quản lý tín dụng bán lẻ hiệu quả hơn.
2.2.5.2. Một số hạn chế của hoạt động tín dụng bán lẻ tại Ngân hàng TMCP
Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh
- So với các NHTM khác thì BIDV chưa có vị thế mạnh trong hoạt động ngân hàng bán lẻ nói chung và TDBL nói riêng. Việc phát triển theo mô hình ngân hàng bán lẻ những năm gần đây được BIDV-HCM chú trọng. Mặt khác, đa số người dân chưa biết đến thương hiệu của BIDV và hay nhầm với Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn, do BIDV trước đây đa phần chỉ phục vụ các khách hàng là doanh nghiệp lớn. Nên khi có nhu cầu vay tiền cho các nhu cầu cá nhân, những người dân này có xu hướng tìm đến các ngân hàng chuyên về bán lẻ như Á Châu, Thương Tín, Đông Á,… . Điều này gây ra nhiều khó khăn cho BIDV-HCM trong việc tiếp cận khách hàng cá nhân và tiếp thị sản phẩm tín dụng bán lẻ.
- Dư nợ của tín dụng bán lẻ chiếm tỷ trọng thấp trong tổng dư nợ của BIDV- HCM, năm 2011 chỉ đạt 4.6% tổng dư nợ, trong khi đó tỷ trọng tín dụng bán lẻ của các ngân hàng thương mại cổ phần chiếm khoảng 40%/tổng dư nợ. Do đó, sản phẩm tín dụng bán lẻ của BIDV-HCM tuy đầy đủ nhưng chưa có sức hấp dẫn, còn chịu áp lực cạnh tranh bởi các ngân hàng thương mại cổ phần trên cùng địa bàn ảnh hưởng lớn đến việc tăng trưởng tín dụng bán lẻ.
- Cơ cấu các sản phẩm tín dụng bán lẻ bị mất cân đối, tỷ trọng cho vay hỗ trợ nhà ở và cho vay cầm cố/chiêt khấu giấy tờ có giá chiếm tỷ trọng quá lớn trên 40%; cho vay du học, cho vay tiêu dùng tín chấp, cho vay hộ kinh doanh cá thể chiếm tỷ
trọng quá nhỏ. Một số sản phẩm có nhưng không phát triển và không có dư nợ như cho vay người lao động làm việc ở nước ngoài, cho vay cán bộ công nhân viên mua cổ phiếu lần đầu trong các doanh nghiệp cổ phần hoá cho thấy việc đa dạng hóa các sản phẩm tín dụng bán lẻ chưa thật sự đem lại hiệu quả thiết thực.
- Các chỉ tiêu nợ nhóm 2, nợ xấu đều tăng qua các năm, mặc dù chiếm tỷ trọng rất nhỏ và là tất yếu của tình hình kinh tế hiện nay nhưng so với quy mô tín dụng bán lẻ còn nhỏ hẹp đòi hỏi ngân hàng phải tích cực hơn trong công tác kiểm tra giám sát rủi ro tín dụng.
- Quy trình cấp tín dụng bán lẻ nói chung và quy định về các sản phẩm tín dụng bán lẻ nói riêng tuy đã cải thiện nhưng còn rườm rà, thời gian thẩm định kéo dài làm cho khách hàng mất đi cơ hội mua hàng hóa tốt, yêu cầu nhiều giấy tờ chứng minh gây khó khăn cho khách hàng, việc định giá giá trị tài sản đảm bảo còn thấp so với các ngân hàng thương mại trên cùng địa bàn.
- Công tác tiếp thị gần đây được BIDV-HCM quan tâm triển khai, nhưng hình thức tổ chức hoạt động marketing tín dụng bán lẻ còn yếu, thiếu tính chuyên nghiệp nên hiệu quả chưa cao, thiếu kinh nghiệm và đầu tư chưa đúng mức.
- Do tính chất công việc và sự luân chuyển nhân viên theo quy định của BIDV nên nhân sự của Phòng quan hệ khách hàng cá nhân tại BIDV-HCM thường xuyên bị biến động, phần lớn là nhân viên trẻ, mới ra trường còn nhiều lúng túng trong tư vấn, hướng dẫn khách hàng, nắm bắt hồ sơ chưa vững.
- Việc thẩm định khách hàng còn chưa chặt chẽ, chưa theo đúng quy trình thủ tục. Khi khách hàng là diện quen biết thì việc xin được vay sẽ trở nên dễ dàng hơn nhiều, bên cạnh đó cũng tồn tại những khách hàng sử dụng khoản tiền vay không đúng với mục đích xin vay ban đầu.
- BIDV nói chung và BIDV-HCM nói riêng vẫn chưa có Trung tâm dịch vụ hỗ trợ khách hàng (Call Center) để giải đáp nhanh các thắc mắc kiến nghị của khách hàng nhằm nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng do đó cũng ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ cung cấp.
2.2.5.3. Nguyên nhân của các hạn chế trong hoạt động tín dụng bán lẻ
Xuất phát từ sự cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các ngân hàng
Việt Nam sau khi chính thức trở thành thành viên Tổ chức thương mại thế giới (WTO) thì sự cạnh tranh trong việc kinh doanh sản phẩm dịch vụ đối với BIDV từ các ngân hàng trong nước và quốc tế ngày càng trở nên gay gắt. Việt Nam đang là mục tiêu của các ngân hàng nước ngoài thâm nhập thị trường Việt Nam nhằm chiếm lĩnh thị phần thông qua việc đầu tư vào các đối tác chiến lược là các ngân hàng cổ phần trong nước, mở rộng hoạt động và thành lập các chi nhánh ngân hàng 100% vốn nước ngoài. Với sự hỗ trợ về vốn, công nghệ và kinh nghiệm của các đối tác chiến lược nước ngoài, các ngân hàng TMCP trong nước liên tục mở rộng mạng lưới, đa dạng hoá và nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ. Các ngân hàng thương mại Nhà nước cũng nhanh chóng chuyển đổi sang mô hình cổ phần nhằm tạo ra một cơ chế hoạt động năng động hơn trước áp lực cạnh tranh.
Bên cạnh đó, các ngân hàng nước ngoài bắt đầu khai thác thị trường bán lẻ, thay vì chỉ có bán buôn như trước đây, các sản phẩm dịch vụ ngân hàng bán lẻ bắt đầu được ngân hàng ngoại lên kế hoạch xây dựng, tung ra thị trường, với mong muốn sớm chiếm lĩnh thị phần. Việc thâm nhập sâu của các ngân hàng nước ngoài trên thị trường tài chính Việt Nam đang ngày càng rò nét, mặc dù các ngân hàng trong nước cũng tăng tốc đưa ra thị trường nhiều sản phẩm mới.
Và một số ngân hàng trong nước đi đầu trong hoạt động ngân hàng bán lẻ như ACB, Sacombank và Techcombank... đã có chiến lược và đường lối phát triển rò ràng. Nay trong hoàn cảnh ngày càng có thêm nhiều đối thủ cạnh tranh, mà nhất là các đối thủ đến từ nước ngoài vốn có thế mạnh trong hoạt động ngân hàng bán lẻ nói chung và hoạt động tín dụng bán lẻ nói riêng thì càng khó khăn hơn cho BIDV- HCM nói riêng và BIDV nói chung để có thể cạnh tranh phát triển TDBL.
Xuất phát từ môi trường pháp lý
Cho đến nay các hoạt động tín dụng đều được điều tiết theo những cơ chế, chính sách chung, từ Luật, các văn dưới Luật, cho đến các thông tư, nghị định hướng dẫn, các quy định của Ngân hàng Nhà nước đều chỉ quy định chung đối với
hoạt động tín dụng, không phân biệt bán buôn và bán lẻ. Trong khi đó, hoạt động TDBL với những đặc thù riêng cần thiết có những cơ chế chính sách cụ thể, quy trình riêng biệt phù hợp làm nền tảng thúc đẩy hoạt động này phát triển.
Bên cạnh đó khuôn khổ thể chế liên quan đến phát triển dịch vụ ngân hàng còn bất cập, chưa hoàn chỉnh và đồng bộ. Mặc dù đã có những tiến bộ đáng kể trong việc hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp luật liên quan đến ngân hàng nhưng hệ thống pháp luật ngân hàng hiện nay chưa hoàn chỉnh, chưa đồng bộ, đặc biệt trong lĩnh vực thanh toán quốc tế, ngân hàng điện tử ... Luật Ngân hàng Nhà nước, Luật Lao động, Luật Phá sản... còn nhiều bất cập, chưa tạo môi trường pháp lý đồng bộ cho hoạt động của ngân hàng và các tổ chức tín dụng trong cơ chế thị trường.
Xuất phát từ phía ngân hàng
- BIDV chưa xây dựng được chiến lược phát triển thành một ngân hàng bán lẻ hiện đại, chuyên nghiệp, với lộ trình cụ thể trong từng giai đoạn, với kế hoạch phát triển các sản phẩm dịch vụ đa dạng, tiện ích, với mô hình tổ chức, cơ chế, chính sách phù hợp, đáp ứng yêu cầu của một ngân hàng bán lẻ hiện đại. Đồng thời, BIDV cũng chưa xây dựng được kế hoạch phát triển các nhóm sản phẩm, dịch vụ ngân hàng cụ thể, trong đó có tín dụng bán lẻ.
- Sản phẩm tín dụng bán lẻ chưa thu hút được nhiều khách hàng, chưa phù hợp với từng phân khúc khách hàng, như đối với hoạt động cho vay hỗ trợ nhu cầu về nhà ở tại BIDV chỉ có một sản phẩm chung cho tất cả các nhu cầu của khách hàng (mua mới nhà/đất ở, xây dựng/sửa chữa/cải tạo nhà ở, mua sắm trang thiết bị nội thất…) trong khi các ngân hàng TMCP, ngân hàng nước ngoài thường chia thành nhiều sản phẩm khác nhau, đáp ứng từng nhu cầu cụ thể của khách hàng (ACB có 4 sản phẩm: cho vay trả góp mua nhà ở/nền nhà, cho vay trả góp xây dựng/sửa chữa nhà, cho vay mua căn hộ Phú Mỹ Hưng thế chấp bằng căn hộ mua, cho vay mua biệt thự Riveria thế chấp bằng chính biệt thự mua; ANZ có 4 sản phẩm: cho vay mua nhà để ở, cho vay mua nhà để đầu tư, cho vay đầu tư bất động sản, cho vay mua nhà với lãi suất ưu đãi…).
BIDV thiếu các sản phẩm tiềm năng so ngân hàng khác như sản phẩm cho vay mua hàng trả góp thông qua nhà phân phối hàng tiêu dùng, cho vay mua căn hộ/đất nền thông qua chủ đầu tư...
Một số sản phẩm chưa phù hợp nhu cầu của khách hàng nên sau thời gian được ban hành, sản phẩm chậm triển khai trong thực tế như: sản phẩm cho vay người lao động đi làm việc ở nước ngoài, sản phẩm cho vay cán bộ công nhân viên mua cổ phiếu lần đầu trong các doanh nghiệp cổ phần hoá.
Các sản phẩm TDBL của BIDV chưa ứng dụng công nghệ hiện đại (đơn vay vốn trực tuyến, tư vấn online, qua điện thoại…) nên chưa thuận tiện, chưa đáp ứng được nhu cầu vay vốn của khách hàng một cách nhanh chóng, kịp thời.
- Hạn chế của quy trình cấp tín dụng bán lẻ hiện tại: Một số sản phẩm có quy định thời gian hoàn thành thủ tục cấp tín dụng cho khách hàng thông qua việc công bố mục tiêu chất lượng sản phẩm, đối với cho vay mua nhà/đất ở là 5 ngày (kể từ khi nhận đủ hồ sơ); cho vay cầm cố, thấu chi là 1 ngày... Theo quy trình hiện tại, cấp tín dụng cho khách hàng trải qua rất nhiều khâu, nhưng chưa có quy định chi tiết thời gian tối đa ở từng khâu, nên khó đảm bảo thời gian cấp tín dụng nhanh nhất cho khách hàng.
Một số phẩm TDBL khá đơn giản/an toàn nhưng phải thực hiện đầy đủ các bước của quy trình TDBL chung, như cho vay cầm cố, chiết khấu giấy tờ có giá… vẫn phải kiểm tra mục đích sử dụng vốn vay trước, trong và sau khi cho vay.
Hệ thống mẫu biểu chưa đầy đủ, chưa được chuẩn hoá, có quá nhiều người cùng phải ký nhưng không cần thiết (phiếu nhập/xuất kho tài sản đảm bảo); khách hàng phải ký nhiều lần khi đăng ký sử dụng gói sản phẩm gồm nhiều sản phẩm (khách hàng đăng ký sử dụng thấu chi qua thẻ phải ký điền và ký vào 5 mẫu đăng ký: mở tài khoản, vay thấu chi, phát hành thẻ ATM, đăng ký nhắn tin qua điện thoại di động, vấn tin qua internet).
- Đội ngũ cán bộ quan hệ khách hàng chưa chuyên nghiệp và chưa được đào tạo đáp ứng yêu cầu ngân hàng bán lẻ. BIDV-HCM có đội ngũ cán bộ tín dụng được đào tạo khá bài bản, có kinh nghiệm chuyên sâu trong lĩnh vực bán