Giải pháp phòng, chống rửa tiền tại Ngân hàng TMCP Kiên Long - 2


CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

1.1 Tính cấp thiết của đề tài

Cùng với việc hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, vấn đề về dịch chuyển của các luồng vốn quốc tế đang được quan tâm, và Việt Nam là một trong những quốc gia ít nhiều bị ảnh hưởng. Trong sự vận động của các luồng vốn đó, bên cạnh mặt tích cực thì cũng mang lại cho những quốc gia tiếp nhận những vấn đề cần phải giải quyết, trong đó có vấn đề rửa tiền. Phương thức rửa tiền rất đa dạng và một trong các phương thức đó là rửa tiền thông qua hệ thống Ngân hàng.

Với định hướng trở thành ngân hàng bán lẻ hiện đại, đa năng, bám sát mục tiêu “An toàn, bền vững và lợi nhuận hợp lý”, ngân hàng TMCP Kiên Long không ngừng mở rộng thị trường hoạt động và thiết lập quan hệ với nhiều định chế tài chính trên thế giới. Trong quá trình hội nhập đó sẽ không tránh khỏi những rủi ro, trong đó là nạn rửa tiền qua hệ thống ngân hàng. Đây là vấn đề cấp thiết đối với ngân hàng Kiên Long trong bối cảnh các đối tượng rửa tiền thường nhắm đến những ngân hàng nhỏ với hệ thống quản lý còn chưa chặt chẽ để thực hiện hành vi rửa tiền. Mặc dù trong thời gian qua, ngân hàng TMCP Kiên Long đã và đang từng bước phối hợp với các đối tác chiến lược hoàn thiện năng lực quản lý rủi ro và tuân thủ, đặc biệt là công tác quản lý tuân thủ Phòng, chống rửa tiền, chú trọng về cơ chế chính sách, nhân sự, hệ thống công nghệ thông tin để chung tay với Chính phủ Việt Nam ngăn chặn các giao dịch về rửa tiền nhưng những hoạt động của vấn nạn rửa tiền vẫn diễn biến phức tạp.

Việc nghiên cứu thực trạng qua đó đề xuất những giải pháp phù hợp tại TMCP Kiên Long luôn là một vấn đề cấp thiết. Đề tài “Giải pháp phòng, chống rửa tiền tại Ngân hàng TMCP Kiên Long” được chọn nghiên cứu vì lý do trên.

1.2. Mục tiêu nghiên cứu

Luận văn được thực hiện để hướng tới một số mục tiêu sau:

Thứ nhất: Nghiên cứu về hoạt động rửa tiền qua hệ thống ngân hàng.

Thứ hai: Nghiên cứu thực trạng công tác phòng, chống rửa tiền tại Ngân hàng TMCP Kiên Long.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 121 trang tài liệu này.

Thứ ba: Đề xuất các giải pháp phòng, chống rửa tiền tại Ngân hàng TMCP Kiên Long.


Giải pháp phòng, chống rửa tiền tại Ngân hàng TMCP Kiên Long - 2

1.3 Câu hỏi nghiên cứu

Luận văn tập trung trả lời hai câu hỏi nghiên cứu sau:

Thứ nhất: Thế nào là hoạt động rửa tiền qua hệ thống ngân hàng?

Thứ hai: Thực trạng công tác phòng, chống rửa tiền tại Ngân hàng TMCP Kiên Long như thế nào?

Thứ ba: Làm thế nào để phòng, chống rửa tiền tại Ngân hàng TMCP Kiên

Long?

1.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu: công tác phòng, chống rửa tiền thông qua hệ thống ngân

hàng.

Phạm vi nghiên cứu: tại Ngân hàng TMCP Kiên Long. Khung thời gian thu thập số

liệu trong nghiên cứu này là giai đoạn từ 2010 đến 2015.

1.5. Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp thống kê nhằm tổng hợp các số liệu, đánh giá thực trạng công tác phòng, chống rửa tiền tại Ngân hàng TMCP Kiên Long.

Phương pháp phỏng vấn nhóm, phỏng vấn chuyên gia: phỏng vấn trực tiếp những người làm công tác phòng chống rửa tiền tại Ngân hàng, đó là các Giao dịch viên, Kiểm soát viên, Trưởng phòng kế toán, Phó giám đốc phụ trách kế toán. Ngoài ra, bài nghiên cứu còn phỏng vấn ý kiến của đại diện cơ quan quản lý nhà nước: Chánh thanh tra Ngân hàng Nhà nước và nhân viên chuyên trách công tác PCRT tại Hội sở Ngân hàng Kiên Long.

Nguồn dữ liệu của luận văn: luận văn sử dụng dữ liệu từ các báo cáo của cơ quan thanh tra giám sát Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; Các quy trình, quy chế về phòng, chống rửa tiền, các báo cáo về các giao dịch đáng ngờ của Ngân hàng TMCP Kiên Long.

1.6. Kết cấu của luận văn

Luận văn được chia thành năm chương:

Chương 1: Giới thiệu luận văn thạc sĩ kinh tế

Chương 2: Tổng quan về rửa tiền và công tác phòng, chống rửa tiền qua hệ thống Ngân hàng.

Chương 3: Phương pháp nghiên cứu


Chương 4: Thực trạng công tác phòng, chống rửa tiền tại Ngân hàng TMCP Kiên Long.

Chương 5: Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống rửa tiền tại Ngân hàng TMCP Kiên Long.

1.7 Ý nghĩa thực tiễn của đề tài nghiên cứu

Đã có nhiều nghiên cứu về vấn đề rửa tiền và phòng, chống rửa tiền, tuy nhiên các nghiên cứu cả trong và ngoài nước chỉ dừng lại nghiên cứu ở số liệu vĩ mô, có chăng là các nghiên cứu về công tác phòng, chống rửa tiền thông qua hệ thống các ngân hàng Việt Nam. Luận văn không những hệ thống hoá lại những kiến thức về rửa tiền mà còn đi sâu nghiên cứu thực tiễn của công tác phòng, chống rửa tiền tại một Ngân hàng cụ thể (Ngân hàng Kiên Long) để có cái nhìn thực tế về công tác này trong hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam. Trên cơ sở phân tích thực trạng, luận văn đề xuất những giải pháp mang tính ứng dụng thực tiễn nhằm góp phần nâng cao hiệu quả của công tác phòng, chống rửa tiền. Đây là một điểm mới của luận văn.

Kết luận chương 1

Chương 1 đã giới thiệu tổng quan nghiên cứu thông qua các nội dung như lý do chọn đề tài, mục tiêu nghiên cứu, câu hỏi nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu, kết cấu luận văn. Bên cạnh đó, còn cho thấy được ý nghĩa thực tiễn của đề tài nghiên cứu. Với những kết quả đạt được từ chương 1 sẽ tạo nền tảng, tiền đề cho việc nghiên cứu các chương tiếp theo.


CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN VỀ RỬA TIỀN VÀ CÔNG TÁC PHÒNG CHỐNG RỬA TIỀN QUA HỆ THỐNG

NGÂN HÀNG

Chương này tập trung làm rõ các vấn đề sau:

- Tập trung nghiên cứu các vấn đề liên quan đến rửa tiền và phòng, chống rửa tiền như khái niệm, quy trình rửa tiền;

- Các tổ chức quốc tế tham gia đấu tranh phòng, chống rửa tiền;

- Các chuẩn mực quốc tế và các văn bản pháp lý về phòng, chống rửa tiền. Đề tài cũng phân tích kinh nghiệm quốc tế trong việc lựa chọn và xây dựng đơn vị tình báo tài chính, trong việc xây dựng pháp luật về phòng, chống rửa tiền tại một số quốc gia trên thế giới làm cơ sở cho việc nghiên cứu, xây dựng giải pháp cho hoạt động phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam.

- Trình bày các nghiên cứu trong và ngoài nước về hoạt động rửa tiền thông qua hệ thống ngân hàng.

2.1 Tổng quan về rửa tiền

2.1.1 Khái niệm rửa tiền

Thuật ngữ “rửa tiền” – “money laundering” được cho là có nguồn gốc xuất phát từ Mỹ vào những năm 70 của thế kỷ XX khi xuất hiện các băng đảng nhập khẩu và buôn bán chất có chứa cồn trái pháp luật – nhằm đi ngược lại luật cấm sử dụng các đồ uống có cồn tại thời điểm đó. Một số lượng tiền lớn đã được tạo ra từ các hoạt động trái phép này, và một trong những phương pháp che giấu nguồn gốc của số tiền này là cờ bạc hợp pháp, tuy nhiên, các đối tượng này phải đối mặt với việc thu về lượng lớn là tiền mặt – thường là tiền xu mệnh giá nhỏ, vì vậy họ tạo ra các doanh nghiệp, một trong số đó là các xưởng giặt là (laundries), khái niệm “money launder” – “rửa tiền” được sinh ra từ đó.

Đi cùng với sự phát triển của kinh tế toàn cầu, quá trình toàn cầu hoá khiến cho các hoạt động rửa tiền trở nên phức tạp hơn bao giờ hết, nó không chỉ còn dừng chân trong biên giới của bất kỳ một quốc gia nào, mà trở thành hoạt động có tính xuyên quốc gia và đặc biệt là tập trung ở các nước đang phát triển, nơi có các định chế về hoạt động tài chính còn chưa hoàn thiện, gây ra những hệ luỵ không nhỏ tới các quốc


gia đó. Chính vì vậy, rất nhiều các nước đã ban hành Luật chống rửa tiền nhằm kiểm soát, phát hiện và phòng chống hoạt động rửa tiền.

1Có thể định nghĩa rửa tiền theo một số cách. Hầu hết các nước tán thành định

nghĩa được sử dụng trong Công ước của Liên Hợp Quốc về chống buôn bán bất hợp pháp ma túy và các chất hướng thần (năm 1988) (Công ước Viên) và Công ước của Liên Hợp Quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia (năm 2000) (Công ước Palécmô):

Sự chuyển hoán hoặc chuyển nhượng tài sản khi biết tài sản đó có nguồn gốc từ bất kỳ hành vi phạm tội [buôn bán bất hợp pháp ma túy] nào hoặc từ việc tham gia vào hành vi phạm tội đó nhằm mục đích giấu giếm hoặc che đậy nguồn gốc phi pháp của tài sản hoặc tiếp tay cho bất kỳ cá nhân nào có dính líu đến việc thực hiện hành vi phạm tội nói trên để tránh cho người đó phải chịu những hậu quả pháp lý do hành động của mình;

Việc giấu giếm hoặc che đậy bản chất thực, nguồn gốc, địa điểm, việc định đoạt, sự chuyển dịch, các quyền liên quan đến tài sản hoặc quyền sở hữu tài sản khi biết rằng tài sản đó có được từ hành vi phạm tội hoặc từ việc tham gia vào hành vi phạm tội đó và;

Việc có được, chiếm hữu hoặc sử dụng tài sản khi tại thời điểm tiếp nhận nó đã biết rằng tài sản này có được từ hành vi phạm tội hoặc từ việc tham gia vào hành vi phạm tội đó.

Lực lượng đặc nhiệm tài chính về chống rửa tiền (FATF) - một tổ chức được công nhận là tổ chức đặt tiêu chuẩn quốc tế cho những nỗ lực về chống rửa tiền (AML)- đưa ra định nghĩa súc tích cho thuật ngữ “rửa tiền” là “việc xử lý… tiền do phạm tội mà có nhằm che đậy nguồn gốc bất hợp pháp của chúng” nhằm “hợp pháp hóa”những món lợi thu được một cách bất chính từ hành vi phạm tội2.

Tại Việt Nam, Bộ luật Hình sự nước Cộng hòa XHCN Việt Nam được ban hành năm 1999 đã có 2 điều quy định về tội “Chứa chấp, tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” (Điều 250) và tội “Hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội mà có” (Điều


1Paul Allan Schott, Reference Guide to Anti-Money Laundering and Combating the Financing of Terrorism, 2 ed., WB, 2006, tr. I-2 đến I-3.

2Paul Allan Schott, Reference Guide to Anti-Money Laundering and Combating the Financing of Terrorism, 2 ed., WB, 2006, tr I-3


251) và các chế tài tương ứng. Bộ luật Hình sự năm 1999 chưa có tội danh “Rửa tiền” nhưng về bản chất, những hành vi quy định tại Điều 250 và 251 nêu trên là những hành vi rửa tiền và được quốc tế thừa nhận. Tiếp sau đó, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự 1999 đã bổ sung một số điều khoản liên quan trực tiếp đến rửa tiền và tài trợ khủng bố với những hình phạt đảm bảo tính răn đe.

Việt Nam chính thức tham gia cuộc chiến phòng chống rửa tiền kể từ khi ban hành Nghị định 74/2005/ NĐ-CP về PCRT vào ngày 7/6/2005. Đây là văn bản pháp lý đầu tiên về công tác PCRT, đặt nền móng cho sự phát triển của hệ thống PCRT tại Việt Nam. Nghị định đã đưa ra những quy định cụ thể về các biện pháp phòng ngừa hoạt động rửa tiền, các biện pháp tạm thời, về cơ chế triển khai thực hiện, về hệ thống tổ chức công tác PCRT từ việc thu thập thông tin, báo cáo đến việc phân tích thông tin, chuyển giao thông tin, về các mối quan hệ trong công tác PCRT trong và ngoài nước, về trách nhiệm của các cơ quan nhà nước và cả cơ chế xử phạt hành chính đối với hành vi vi phạm pháp luật về PCRT.

Theo đó, tại điểm 1, điều 3 của nghị định này quy định:“Rửa tiền là hành vi của cá nhân, tổ chức tìm cách hợp pháp hoá tiền, tài sản do phạm tội mà có thông qua các hoạt động cụ thể sau đây:

a) Tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào một giao dịch liên quan đến tiền, tài sản do phạm tội mà có;

b) Thu nhận, chiếm giữ, chuyển dịch, chuyển đổi, chuyển nhượng, vận chuyển, sử dụng, vận chuyển qua biên giới tiền, tài sản do phạm tội mà có;

c) Đầu tư vào một dự án, một công trình, góp vốn vào một doanh nghiệp hoặc tìm cách khác che đậy, nguỵ trang hoặc cản trở việc xác minh nguồn gốc, bản chất thật sự hoặc vị trí, quá trình di chuyển hoặc quyền sở hữu đối với tiền, tài sản do phạm tội mà có.”

Nghị định 74/2005/NĐ-CP (Nghị định 74) đã quy định rõ về các đối tượng chịu trách nhiệm PCRT gồm các tổ chức được thành lập và hoạt động theo quy định của Luật các Tổ chức tín dụng, các tổ chức môi giới, đầu tư tiền tệ hoặc cung ứng dịch vụ thanh toán trên lãnh thổ Việt Nam; Các tổ chức phát hành, niêm yết, giao dịch, kinh doanh, lưu ký, thanh toán bù trừ chứng khoán; Các tổ chức có đăng ký kinh doanh ngoại tệ, vàng bạc, đá quý; Các công ty bảo hiểm, môi giới bảo hiểm và các tổ chức có


hoạt động liên quan tới các chương trình hưu trí hay an sinh, kinh tế, xã hội; Các tổ chức tại Việt Nam thay mặt hoặc đại diện cho các định chế tài chính của nước ngoài.

Ngày 18/6/2012, Luật PCRT đã được Quốc hội nước CHXH Chủ nghĩa Việt Nam khoá XVIII, kỳ họp thứ 3 thông qua, đánh dấu một mốc quan trọng trong việc hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về PCRT ở Việt Nam, góp phần minh bạch hóa nền tài chính tiền tệ của quốc gia. Theo đó“Rửa tiền là hành vi của tổ chức, cá nhân nhằm hợp pháp hóa nguồn gốc của tài sản do phạm tội mà có, bao gồm:

a) Hành vi được quy định trong Bộ luật hình sự;

b) Trợ giúp cho tổ chức, cá nhân có liên quan đến tội phạm nhằm trốn tránh trách nhiệm pháp lý bằng việc hợp pháp hóa nguồn gốc tài sản do phạm tội mà có;

c) Chiếm hữu tài sản nếu tại thời điểm nhận tài sản đã biết rõ tài sản đó do phạm tội mà có, nhằm hợp pháp hóa nguồn gốc tài sản”.

Tóm lại có nhiều khái niệm về rửa tiền với những phạm vi và mức độ khác nhau, nhưng theo cách hiều phổ biến nhất thì rửa tiền là hành vi của cá nhân, tổ chức tìm cách hợp pháp hoá tiền, tài sản do phạm tội mà có.

2.1.2 Nguồn gốc của tiền bẩn

– Buôn lậu ma túy, vũ khí, mại dâm và các loại hàng hoá bị cấm mua bán, trao đổi như rượu, thuốc lá v.v.

– Tiền tham nhũng, nhận hối lộ của các nhà lãnh đạo quốc gia, các quan chức địa phương;

– Tiền có do tham nhũng, nhận hối lộ, tham ô của các viên chức nhà nước hoặc do lợi dụng chức vụ, địa vị trong bộ máy nhà nước mà có như lợi dụng việc biết trước các thông tin về chủ trương, chính sách, quy hoạch v.v… để trục lợi;

– Tiền có được do mua bán nội gián trên thị trường chứng khoán, mua bán lòng vòng;

– Tiền của các tổ chức tội phạm có được do làm tiền giả, tống tiền, tổ chức đánh bạc;

– Tiền có được do hoạt động chuyển giá giữa các công ty thuộc cùng một tập đoàn hoặc công ty mẹ – con hoặc tiền có được do trốn thuế.


2.1.3 Chu trình rửa tiền

Hoạt động rửa tiền phổ biến trên Thế giới thường tiến hành theo ba bước chính3:

2.1.3.1 Sắp đặt

Giai đoạn đầu tiên của quy trình này liên quan đến việc bố trí các quỹ có nguồn gốc phi pháp vào trong hệ thống tài chính, thường thông qua một tổ chức tài chính. Việc này có thể được thực hiện bằng cách gửi tiền vào một tài khoản ngân hàng. Những lượng tiền mặt lớn được chia thành các khoản nhỏ hơn, ít đáng ngờ hơn và được gửi dần vào các phòng khác nhau của một hoặc vào nhiều định chế tài chính. Việc đổi từ đồng tiền này sang đồng tiền kia cũng như chuyển những đồng tiền có mệnh giá thấp sang đồng tiền có mệnh giá lớn hơn có thể xảy ra ở giai đoạn này. Ngoài ra, các khoản tiền phi pháp có thể được chuyển đổi thành các công cụ tài chính như các lệnh chuyển tiền hoặc séc và được trộn lẫn với những khoản tiền hợp pháp để đánh lạc hướng sự chú ý của người khác. Việc bố trí này còn có thể được hoàn thành bằng cách dùng tiền mặt mua chứng khoán hoặc hợp đồng bảo hiểm.

2.1.3.2 Sắp lớp (chia nhỏ)

Giai đoạn thứ hai của rửa tiền xảy ra sau khi những khoản lợi nhuận phi pháp đã được đưa vào hệ thống tài chính; tại thời điểm này, các khoản tiền, chứng khoán hoặc hợp đồng bảo hiểm được chuyển đổi hoặc chuyển sang các tổ chức khác nhằm tiếp tục tách chúng ra khỏi nguồn gốc phạm tội. Khi đó, những khoản tiền đó có thể được dùng để mua chứng khoán, hợp đồng bảo hiểm khác hoặc dễ dàng được chuyển đổi sang các công cụ đầu tư và sau đó lại được bán thông qua một tổ chức khác. Những khoản tiền này cũng có thể được chuyển đi dưới bất kỳ một dạng công cụ có thể chuyển nhượng cho người khác để lấy tiền như séc, lệnh chuyển tiền hoặc trái phiếu vô danh hoặc có thể được chuyển bằng phương tiện điện tử tới các tài khoản khác ở nhiều nước và vùng lãnh thổ khác nhau. Những kẻ rửa tiền cũng có thể ngụy trang việc chuyển tiền đó dưới hình thức thanh toán tiền cho hàng hóa hoặc dịch vụ hoặc chuyển kinh phí vào một công ty trá hình.



3Paul Allan Schott, Reference Guide to Anti-Money Laundering and Combating the Financingof Terrorism, 2 ed., WB, 2006, tr. I-7 đến I-9

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 13/12/2023