Thực Trạng Hoạt Động Marketing Du Lịch Của Tỉnh Bến Tre


CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG MARKETING DU LỊCH CỦA TỈNH BẾN TRE

2.1 Tiềm năng phát triển du lịch tỉnh Bến Tre

Bến Tre có phía Bắc giáp Tiền Giang; phía Đông và Đông Nam giáp biển Đông; phía Tây và Tây Nam giáp Vĩnh Long và Trà Vinh. Ranh giới tự nhiên của tỉnh là sông Tiền, sông Cổ Chiên và biển Đông, chảy qua tỉnh còn 2 con sông lớn là sông Hàm Luông và Ba Lai. Trung tâm của tỉnh là Thành phố Bến Tre cách Thành phố Hồ Chí Minh 86 km về phía Bắc.

Là tỉnh đồng bằng nằm cuối nguồn sông Cửu Long tiếp giáp biển Đông, Bến Tre có 65 km đường bờ biển và được 4 con sông lớn là Tiền Giang, Ba Lai, Hàm Luông, Cổ Chiên như các nan quạt xoè ra phía biển chia lãnh thổ tỉnh ra thành 3 cù lao lớn là: Cù lao An Hoá (gồm 2 huyện Châu Thành, Bình Đại); Cù lao Bảo (gồm Thành phố Bến Tre và 2 huyện Giồng Trôm, Ba Tri); Cù lao Minh (gồm 3 huyện Chợ Lách, Mỏ Cày, Thạnh Phú).Ngoài các con sông lớn còn có nhiều kênh rạch chằng chịt thuận tiện cho việc phát triển giao thông đường thuỷ giữa các vùng, các khu vực trong ngoài tỉnh. Với địa hình bằng phẳng, rải rác có những giồng cát xen kẽ với ruộng, vườn trái cây ngon ngọt, những vườn dừa bạt ngàn xanh biếc.

Bến Tre kỳ vọng sẽ có bước phát triển đột phá trong việc thu hút đầu tư cũng như phát triển khối du lịch - dịch vụ - thương mại. Sự phát triển của kinh tế - xã hội góp phần thúc đẩy phát triển du lịch cũng như đầu tư du lịch.

2.1.1 Tài nguyên du lịch tự nhiên

- Cồn Phụng nằm giữa sông Tiền, án ngữ ngay cửa ngõ đi vào Bến Tre, thuộc xã Tân Thạch, huyện Châu Thành, cách trung tâm Thành phố 12 km. Cồn Phụng có diện tích 52 ha được tạo nên từ những vườn cây trái trĩu cành, khí hậu mát mẻ, môi trường sinh thái trong lành. Ngoài việc tận hưởng khí trời, tham quan quần thể kiến trúc Đạo Dừa vẫn còn giữ nguyên hiện trạng, du khách còn có dịp biết thêm về làng nghề thủ công mỹ nghệ từ cây dừa.

- Cồn Qui nằm giữa sông Tiền thuộc xã Tân Thạch và xã Quới Sơn huyện Châu Thành, thuộc cụm cồn tứ linh (Long, Lân, Qui, Phụng), cùng cồn Phụng án ngữ


cửa vào Bến Tre. Cồn Qui có diện tích 40 ha, với những vườn cây trĩu cành, còn mang nét hoang sơ của miệt vườn sông nước, môi trường sinh thái trong lành.

- Cồn Ốc thuộc xã Hưng Phong huyện Giồng Trôm, có chiều dài 8,3 km, rộng 1,2 - 1,5 km. Diện tích 1.284 ha nằm trên sông Hàm Luông, cách Thành phố Bến Tre khoảng 10 km về hướng Đông. Cồn Ốc đặc biệt với những vườn dừa gồm nhiều chủng loại như dừa xiêm, dừa dứa... đan xen với vườn cây ăn trái, với không khí trong lành, mát mẻ của vùng sông nước. Người dân sống hiền hoà, thân thiện.

- Vùng du lịch 8 xã ven sông huyện Châu Thành hấp dẫn du khách bởi sự đậm đà, mộc mạc của một làng quê Việt Nam với bạt ngàn vườn cây trái, với những điểm du lịch miệt vườn, ăn trái cây, nghe ca nhạc tài tử, ngắm đom đóm về đêm, đi xe ngựa, xuồng chèo, tham quan mô hình ruộng lúa nước,... đặc biệt được hoà mình vào cuộc sống của những người dân ở đây và luôn được đón tiếp bằng lòng nhiệt tình, thân thiện và hiếu khách.

- Làng hoa kiểng Chợ Lách nổi tiếng với nghề sản xuất cây giống, trồng hoa kiểng, tập trung chủ yếu ở các xã Vĩnh Thành, Vĩnh Hoà, Phú Sơn, Long Thới, ngoài ra còn nổi tiếng với những loại trái cây ngon. Cung cấp phần lớn các loài cây giống, hoa kiểng, trái cây ngon cho toàn quốc.

- Làng nghề bánh tráng Mỹ Lồng, bánh phồng Sơn Đốc ở huyện Giồng Trôm, không chỉ nổi tiếng trong tỉnh mà còn cả vùng Nam Bộ. Làng nghề này có bề dày truyền thống trên 50 năm, người dân nơi đây đã giữ gìn và phát huy những bí quyết của mình để cho ra đời loại bánh phổ biến, mang đậm sắc thái Nam Bộ mà không đâu có được.

- Làng nghề sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ từ cây dừa: Vốn là tỉnh có lợi thế về cây dừa, người dân đã tận dụng tất cả các thành phần của cây dừa như thân, cọng, gáo dừa ... làm ra nhiều sản phẩm thủ công mỹ nghệ độc đáo, rất được du khách ưa chuộng, đồng thời trở thành một nghề thủ công đặc trưng của Bến Tre.

2.1.2 Tài nguyên du lịch nhân văn (bao gồm di tích lịch sử - văn hoá)

Bến Tre có nhiều di tích văn hoá lịch sử có giá trị độc đáo được cả nước biết đến như Bảo tàng Bến Tre, các nhân sĩ trí thức yêu nước như Nguyễn Thị Định, Nguyễn


Đình Chiểu, Võ Trường Toản, Phan Thanh Giản ... các địa danh nổi tiếng như làng du kích xã Định Thủy đã đi vào lịch sử với phong trào Đồng Khởi đầu tiên vào năm 1960 với đội quân tóc dài ''Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang'' lừng danh, khu di tích Vàm Khâu Băng là nơi tiếp nhận vũ khí được chi viện từ Bắc vào Nam theo đường mòn Hồ Chí Minh trên biển ... Các di tích cách mạng tiêu biểu của Bến Tre có thể kể đến các di tích lịch sử đã được công nhận là di tích lịch sử quốc gia, bao gồm:

- Di tích lịch sử mộ và khu tưởng niệm Nguyễn Đình Chiểu: thuộc xã An Đức, huyện Ba Tri, cách Tp.Bến Tre 38 km, cách thị trấn Ba Tri 2 km. Đây có thể coi là một trong những điểm tài nguyên nhân văn quan trọng nhất của tỉnh, để phục vụ phát triển du lịch.

- Di tích lịch sử Đồng Khởi: toạ lạc tại xã Định Thủy, huyện Mỏ Cày, tỉnh Bến Tre, nơi nổ ra phát súng đầu tiên của phong trào Đồng Khởi năm 1960 nổi dậy trong toàn tỉnh, sau đó lan ra toàn miền Nam. Chính từ phong trào Đồng Khởi năm đó, quê hương Bến Tre được vinh dự mang tên quê hương Đồng Khởi.

- Di tích lịch sử Chùa Tuyên Linh: Được xây dựng từ năm 1861 tại xã Minh Đức, huyện Mỏ Cày. Chùa không phải là chùa cổ nhưng nơi đây đã từng diễn ra nhiều sự kiện lịch sử đáng chú ý. Cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc - thân sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có thời gian sống tại đây, dạy học, xem mạch, bốc thuốc cho nhân dân trong vùng. Nơi đây từng là cơ sở che chở, đùm bọc cán bộ cách mạng trong những năm kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ.

- Di tích lịch sử Đầu cầu tiếp nhận vũ khí Bắc – Nam: bao gồm các di tích vàm Khâu Băng, cồn Bửng, cồn Lợi, cồn Lớn. Đó là những dãy cồn tiếp giáp với biển Đông thuộc Thạnh Phong - Thạnh Phú. Nơi đây ngày xưa là bến cảng dã chiến của những chuyến tàu đặc biệt tiếp tế vũ khí từ Bắc vào Nam để cung ứng cho chiến trường Bến Tre và một số tỉnh ở khu 8 Nam bộ.

- Khu lưu niệm Nguyễn Thị Định: Khu lưu niệm tại xã Lương Hoà, huyện Giồng Trôm, nơi đã sinh ra người con ưu tú, người nữ tướng đầu tiên, người lãnh đạo xuất sắc đã cống hiến cuộc đời mình cho sự nghiệp giải phóng đất nước. Đền thờ lưu giữ những kỷ vật và ghi lại những chiến tích oai hùng cho thế hệ sau đến tưởng niệm.


- Bảo tàng Bến Tre: Bảo tàng tại 146 Hùng Vương, phường 3, Tp. Bến Tre hiện nay, Bảo tàng được xây dựng vào đầu thế kỷ 20 theo kiến trúc của Pháp, đã từng là dinh Tham biện (thời Pháp) và dinh Tỉnh trưởng (thời Ngụy. Tại đây trưng bày hiện vật, tư liệu lịch sử truyền thống cách mạng Bến Tre.

- Tượng đài Đồng Khởi: Tượng đài tại phường 4, Thành phố Bến Tre. Đây là một công trình văn hoá đẹp được xây dựng và khánh thành vào ngày 17 tháng 01 năm 1995 nhân kỷ niệm 35 năm ngày Bến Tre Đồng Khởi. Tượng chính là một bà mẹ tay vươn cao ngọn đuốc lá dừa ở tư thế tiến công; nhóm tượng phụ thể hiện cuộc chiến tranh nhân dân, phù điêu mô tả tiến công và nổi dậy giành chính quyền làm chủ ở nông thôn trong những ngày Đồng khởi.

- Nhà cổ Đại Điền; Di tích lịch sử mộ cụ Phan Thanh Giản; Di tích lịch sử mộ cụ Võ Trường Toản; Đình Phú Lễ; Đình Bình Hoà; Đình Tân Thạch;…

Tóm lại: Bến Tre có tiềm năng về du lịch, các tài nguyên du lịch của Bến Tre khá đa dạng phong phú thuận lợi cho việc tổ chức và phát triển nhiều loại hình du lịch sinh thái sông nước miệt vườn, tuy nhiên các tài nguyên du lịch về lịch sử nhân văn nói chung chưa có quy hoạch đầu tư khai thác và còn mang tính thực dụng. Có nơi còn rất hoang sơ, còn nằm trong dự kiến khai thác, tôn tạo. Việc khai thác, tôn tạo các đặc điểm nổi trội đó của vùng đất này không chỉ là những nỗ lực nhằm thu hút du khách mà còn là trách nhiệm tôn tạo và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, quảng bá cho du khách về nền văn hiến của một vùng đất giàu truyền thống như Bến Tre.

2.2 Thực trạng kinh doanh du lịch Bến Tre

2.2.1 Số lượng khách du lịch

2.2.1.1 Về cơ cấu nguồn khách


Bảng 2.1 Số lượng khách du lịch đến tỉnh Bến Tre (2008- 2012)

ĐVT: lượt, %



Năm

Tổng

Khách quốc tế

Khách trong nước

Lượt khách

Tốc độ tăng

trưởng

Lượt khách

Tốc độ tăng

trưởng

Lượt khách

Tốc độ tăng

trưởng

2008

610.505

27,00

53.107

4,89

557.398

29,48

2009

641.287

5,04

55.274

4,08

586.013

5,13

2010

669.514

4,40

86.070

55,72

583.444

-0,44

2011

782.402

16,86

103.602

20,37

678.800

16,34

2012

887.376

13,42

111.851

7,96

775.525

14,25

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 145 trang tài liệu này.

(Nguồn: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Tỉnh Bến Tre, Niên giám Thống kê 2012 của Bến Tre và tính toán của tác giả)

Hình 2 1 Tổng lượt Khách du lịch đến Bến Tre qua 5 năm Qua bảng 2 1 và hình 1

Hình 2.1. Tổng lượt Khách du lịch đến Bến Tre qua 5 năm

Qua bảng 2.1 và hình 2.1, Ta thấy từ năm 2008 đến năm 2012, tổng lượt khách du lịch đến Bến Tre tăng trưởng qua các năm, tốc độ tăng trưởng tăng bình quân là 13,34%/năm, từ 610.505 lượt khách năm 2008 tăng lên 873.376 lượt khách năm 2012.


Năm 2008, với những chính sách phát triển mới, chú trọng đầu tư thu hút du khách nên tốc độ tăng trưởng lượt du khách của Bến Tre lớn nhất là với tỷ lệ 27%. Tuy nhiên, với xu thế khó khăn chung của nền kinh tế và du lịch thì tốc độ tăng trưởng du lịch Bến Tre biến động không ổn định qua 5 năm (2008- 2012). Lượng du khách quốc tế chiếm khá ít, trung bình chỉ khoảng dưới 11,42%.

Lượng khách du lịch có tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm khá, đây là dấu hiệu lạc quan của du lịch Bến Tre. Phần đông khách quốc tế đến Bến Tre đều từ thành phố Hồ Chí Minh, thường tham quan phong cảnh sông nước miệt vườn, các khu vườn cây ăn trái và tìm hiểu đời sống, sinh hoạt của cư dân địa phương thuộc huyện Châu Thành và Chợ Lách. Ngoài việc khai thác loại hình du lịch sinh thái, các doanh nghiệp du lịch còn tập trung khai thác các địa danh, di tích văn hóa – lịch sử như: khu di tích Đồng Khởi, Lăng Nguyễn Đình Chiểu, khu lưu niệm Nguyễn Thị Định,..; các doanh nghiệp mạnh dạn mở thêm các tour tham quan mới trong tỉnh; mở ra các tour du lịch ngoài tỉnh.

Bảng 2.2 Tỷ trọng khách quốc tế du lịch đến Bến Tre so với cả nước

ĐVT: lượt, %



Năm

Số khách quốc tế đến

Việt Nam

Số khách quốc tế du lịch đến

Bến Tre

Số lượng

Tốc độ tăng

trưởng

Số lượng

Tỷ trọng so

với cả nước

Tốc độ tăng

trưởng

2008

4.253.740

+ 0,60

53.107

1,25

4,89

2009

3.772.359

- 11,32

55.274

1,47

4,08

2010

5.049.855

+ 33,86

86.070

1,70

55,72

2011

6.014.032

+ 19,09

103.602

1,72

20,37

2012

6.847.678

+ 13,86

111.851

1,63

7,96

(Nguồn : Tổng hợp từ Tổng cục du lịch, Sở Văn hóa – Thể thao và du lịch tỉnh Bến Tre và tính toán của tác giả)


Hình 2 2 Tổng lượt Khách quốc tế du lịch đến Bến Tre qua 5 năm Qua bảng 2 2 2


Hình 2.2 Tổng lượt Khách quốc tế du lịch đến Bến Tre qua 5 năm

Qua bảng 2.2 và hình 2.2, ta thấy từ năm 2008 đến năm 2012, lượt khách quốc tế du lịch đến Bến Tre tăng trưởng qua các năm. Đặc biệt từ năm 2008 đến năm 2011, tốc độ tăng trưởng khách quốc tế du lịch đến Việt Nam thấp hơn tốc độ tăng trưởng khách quốc tế du lịch đến Bến Tre. Năm 2009 tốc độ tăng trưởng khách quốc tế du lịch đến Bến Tre thấp nhất chỉ có 4,08%, trong khi tốc độ tăng trưởng khách quốc tế du lịch đến Việt Nam giảm 11,32%. Sang năm 2010 tốc độ tăng trưởng khách quốc tế du lịch đến Bến Tre cao nhất 55,72%. Đây là năm bước ngoặt khi tỉnh nhà bắt đầu chú trọng đầu tư phát triển du lịch.

Năm 2008 có 4.253.740 lượt khách quốc tế du lịch đến Việt Nam thì có 53.107 lượt khách trong số đó đến du lịch Bến Tre, tỷ trọng chiếm 1,25% so với cả nước. Năm năm sau tức là năm 2012 có 6.847.678 lượt khách quốc tế du lịch đến Việt Nam thì có 111.851 lượt khách trong số đó đến du lịch Bến Tre, tỷ trọng tăng lên 1,63% so với cả nước.

Mặc dù tốc độ tăng trung bình của lượt khách quốc tế du lịch đến Bến Tre là 18,60% nhưng cao hơn so với tốc độ tăng trung bình của cả nước là 11,2% trong thời gian từ 2008-2012, nhưng tỷ trọng chỉ dưới 2% là một con số khá khiêm tốn.

Trong năm 2012, Thành phố Hồ Chí Minh đón khoảng 4.793.375 lượt khách quốc tế, chiếm 70% lượng khách quốc tế đến Việt Nam, gấp 42,85 lần so với Bến Tre;


Tiền Giang đón 150.649 lượt khách du lịch quốc tế, gấp 1,35 lần so với Bến Tre; Cần thơ đón 561.510 lượt khách quốc tế, gấp 5,02 lần so với Bến Tre.

So sánh với Cần Thơ và Tiền Giang, hai địa phương lân cận có tài nguyên du lịch khá tương đồng nhưng lượt khách quốc tế tăng cao hơn so với Bến Tre. Điều này cho thấy tiềm năng cũng như thách thức của ngành du lịch Bến Tre là làm sao tận dụng được tiềm năng, có được sản phẩm độc đáo để thu hút lượng khách quốc tế đến.

Theo thống kê từ Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Bến Tre thì khách quốc tế chủ yếu đến từ ASEAN, Đông Bắc Á, Châu Âu, Mỹ

Hình 2 3 Lý do khách quốc tế du lịch đến Bến Tre qua 5 năm Nguồn theo khảo 3

Hình 2.3 Lý do khách quốc tế du lịch đến Bến Tre qua 5 năm

(Nguồn: theo khảo sát khách du lịch quốc tế của tác giả, phụ lục 2- câu 19)

Khách quốc tế du lịch đến Bến Tre chủ yếu do lý do tiện đường thăm những vùng khác, chiếm 36%. Tỷ lệ lý do khách quốc tế du lịch đến Bến Tre vì có nhiều di tích lịch sử văn hóa có giá trị độc đáo và tham quan xứ dừa cũng chiếm tương đối cao, lần lượt là 31% và 22%.

Qua bảng 2.3 và hình 2.4, Ta thấy từ năm 2008 đến năm 2012, lượt khách nội địa du lịch đến Bến Tre tăng tương đối ổn định, từ 557.398 lượt khách năm 2008 lên

775.525 lượt khách năm 2012. Đặc biệt tốc độ tăng trưởng khách nội địa du lịch đến Bến Tre cao nhất 16,34% vào năm 2011; tốc độ tăng trưởng thấp nhất là vào năm 2010 là âm 0,44%.

Xem tất cả 145 trang.

Ngày đăng: 15/04/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí