Hình Thức Cho Vay Tiêu Dùng Gián Tiếp


Công thức áp dụng để quy đổi ra lãi suất hiệu dụng như sau:

i =

2mL V(n+1)


Trong đó: i: lãi suấthiệu dụng/1 năm


m: số kỳ hạn thanh toán trong một năm

Ngoài ra có thể áp dụng công thức sau:

(n+1)

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 112 trang tài liệu này.

i = 2n x r Trong đó: i: lãi suất hiệu dụng (1 kỳ)


Giải pháp đẩy mạnh hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Bưu điện Liên Việt – Chi nhánh Đông Đô - 3


Phương pháp lãi đơn

r: lãi suất kỳ thanh toán n: số kỳ thanh toán

Theo phương pháp này, vốn gốc người đi vay phải trả từng định kỳ được tính đều nhau, bằng cách lấy vốn gốc ban đầu chia cho số kỳ hạn thanh toán. Còn lãi phải trả ngân hàng ở mỗi định kỳ được tính trên số tiền KH thực sự còn thiếu NH

Phương pháp hiện giá

Theo phương pháp này, tổng số tiền mà KH phải trả NH ở mỗi kỳ (gốc và lãi) là

đều nhau. Và tiền lãi cũng được tính trên dư nợ giảm dần Cho vay tiêu dùng phi trả góp

Theo phương thức này, khách hàng sẽ thanh toán tiền cho ngân hàng một lần khi đến hạn trả nợ. Hình thức cho vay này sẽ được áp dụng với những tài sản có giá trị nhỏ, thời hạn ngắn.

- Căn cứ theo mục đích vay

Cho vay tiêu dùng được chia làm hai loại: đó là cho vay tiêu dùng cư trú và cho vay tiêu dùng phi cư trú.

Cho vay tiêu dùng cư trú là các khoản cho vay nhằm tài trợ cho nhu cầu mua sắm, xây dựng, cải tạo nhà ở của khách hàng là cá nhân hay hộ gia đình.

Cho vay tiêu dùng phi cư trú là các khoản cho vay tài trợ cho việc trang trải các chi phí mua sắm xe cộ, đồ dùng gia đình, chi phí học hành, giải trí và du lịch…

- Căn cứ theo nguồn gốc khoản nợ

Theo nguồn gốc của khoản nợ cho vay tiêu dùng gồm: Cho vay tiêu dùng gián tiếp và cho vay tiêu dùng trực tiếp


Cho vay tiêu dùng gián tiếp:

Cho vay tiêu dùng gián tiếp là hình thức cho vay trong đó ngân hàng mua các khoản nợ phát sinh do những công ty bán lẻ đã bán chịu hàng hoá hay dịch vụ cho người tiêu dùng



1


4

Ngân hàng

Công ty bán lẻ

Người tiêu dùng

2

5

6 3


Hình 1.1: Hình thức cho vay tiêu dùng gián tiếp

(Nguồn: Quy trình tín dụng của LienVietPostBank 2009 và sửa đổi năm 2011)

(1) Ngân hàng và công ty bán lẻ ký hợp đồng mua bán nợ. Trong hợp đồng ngân hàng đưa ra các điều kiện về đối tượng khách hàng bán chịu, số tiền bán chịu tối đa và loại tài sản bán chịu.

(2) Công ty bán lẻ và người tiêu dùng ký hợp đồng mua bán chịu hàng hoá. Thông thường người mua hàng phải trả trước một phần giá trị tài sản.

(3) Công ty bán lẻ giao hàng cho người tiêu dùng.

(4) Công ty bán lẻ bán cho ngân hàng bộ chứng từ hàng hoá bán chịu.

(5) NH thanh toán tiền cho công ty bán lẻ.

(6) Người tiêu dùng thanh toán tiền trả góp cho ngân hàng.

Để thích ứngvới từng đối tượng khách, ngân hàng đưa ra các phương thức khác nhau trong kỹ thuật cho vay gián tiếp:

Tài trợ truy đòi toàn bộ: theo phương thức này, khi bán cho ngân hàng các khoản nợ mà người tiêu dùng đã mua chịu, công ty bán lẻ cam kết sẽ thanh toán cho ngân hàng toàn bộ các khoản nợ nếu khi đến hạn người tiêu dùng không thanh toán cho ngân hàng.


Tài trợ truy đòi hạn chế: theo phương thức này trách nhiệm của công ty bán lẻ đối với các khoản nợ người tiêu dùng mua chịu không thanh toán chỉ giới hạn trong một chừng mực nhất định, phụ thuộc vào các điều khoản đã được thoả thuận giữa ngân hàng với công ty bán lẻ.

Cho vay tiêu dùng trực tiếp:

Là các khoản cho vay tiêu dùng trong đó ngân hàng trực tiếp tiếp xúc và cho khách hàng vay cũng như trực tiếp thu nợ từ người này.


5

Ngân hàng


2

Công ty bán lẻ

Người tiêu

dùng

3



4

1


Hình 1.2: Cho vay tiêu dùng trực tiếp

(1): Ngân hàng và người tiêu dùng ký kết hợp đồng vay.

(2): Người tiêu dùng trả trước một phần số tiền mua tài sản cho công ty bán lẻ. (3): Ngân hàng thanh toán số tiền mua tài sản còn thiếu cho công ty bán lẻ. (4): Công ty bán lẻ giao tài sản cho người tiêu dùng.

(5): Người tiêu dùng thanh toán tiền vay cho ngân hàng.

Ưu, nhược điểm của cho vay tiêu dùng gián tiếp so với cho vay tiêu dùng trực tiếp:

- Ưu điểm:

Cho phép Ngân hàng dễ dàng tăng doanh số cho vay tiêu dùng. Giảm các chi phí xét duyệt hơn so với cho vay trực tiếp.

Rất phù hợp với cách thức mua hàng lâu bền, giá trị lớn với cả người mua (mua hàng trước khi có đủ tiền), và với cả người bán hàng (khi không có đủ khả năng tài chính giữ tất cả các tích trái của họ)


Là nguồn gốc của việc mở rộng quan hệ với khách hàng và các hoạt động ngân hàng khác.

Trong trường hợp có quan hệ với những công ty bán lẻ tốt, công ty có vốn tự có ròng lớn, cho vay tiêu dùng gián tiếp an toàn hơn cho vay tiêu dùng trực tiếp. Bởi vì đảm bảo của khoản vay tỏ ra vững chắc hơn khi có người bán ký hậu trên chứng từ hoặc kỳ phiếu và người bán hàng cũng chịu trách nhiệm giám sát các khoản cho vay trong một giới hạn nào đó (như theo dõi các khoản không trả đúng hạn, việc tái sở hữu, bán hàng hóa tái sở hữu…) làm cho chi phí ngân hàng giảm xuống.

- Nhược điểm:

Ngân hàng không tiếp xúc trực tiếp với người tiêu dùng đã được bán chịu, do

đó các khả năng lừa đảo, giả mạo và xuyên tạc nhiều hơn so với trực tiếp.

Thiếu sự kiểm soát của Ngân hàng khi công ty bán lẻ thực hiện việc bán chịu hàng hóa.

Trong quá trình thực hiện việc trả góp, xảy ra không ít trường hợp người mua trả lại hàng hóa cho người bán (khi họ thấy không thỏa mãn hoặc không có khả năng chi trả) – tình huống này thường không xảy ra đối với cho vay tiêu dùng trực tiếp. Những khoản tranh chấp này ảnh hưởng lớn đến kết quả tín dụng.

Ưu điểm của cho vay tiêu dùng trực tiếp so với cho vay tiêu dùng gián tiếp:

Trong cho vay tiêu dùng trực tiếp ngân hàng có thể tận dụng được sở trường của nhân viên tín dụng là những người được đào tạo chuyên môn và có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực tín dụng cho nên các quyết định tín dụng trực tiếp của ngân hàng thường có chất lượng cao hơn so với trường hợp chúng được quyết định bởi những công ty bán lẻ hoặc nhân viên tín dụng công ty bán lẻ.

Hoạt động của nhân viên tín dụng ngân hàng có xu hướng chú trọng đến việc tạo ra các khoản vay có chất lượng tốt, trong khi nhân viên của những công ty bán lẻ thường chú trọng đến việc bán cho được nhiều hàng.

Tại các điểm bán hàng, các quyết định tín dụng thường được đưa ra một cách vội vàng và như vậy có thể có nhiều khoản tín dụng được cấp ra một cách không


chính đáng. Hơn nữa trong một số trường hợp, do quyết định nhanh, công ty bán lẻ có thể từ chối cấp tín dụng đối với khách hàng tốt của mình. Nếu người cấp tín dụng là ngân hàng, điều này có thể được hạn chế.

Cho vay tiêu dùng trực tiếp có ưu điểm là linh hoạt hơn so với cho vay tiêu dùng gián tiếp.

Khi khách hàng có quan hệ trực tiếp với ngân hàng, có rất nhiều lợi ích lợi thế có thể phát sinh, có khả năng làm thỏa mãn quyền lợi cho cả 2 phía khách hàng và ngân hàng.

Kỹ thuật cho vay và thu nợ:

- Thủ tục vay vốn:

Các ngân hàng khác nhau và những loại tín dụng khác nhau có những thủ tục cụ thể khác nhau, sao cho ngân hàng có thể nắm được các thông tin theo một tiêu chuẩn nhất định. Thông thường các thủ tục ngân hàng quy định bao gồm:

+ Đơn xin vay

+ Các tài liệu liên quan đến thông tin người vay và thuyết minh các khoản tín dụng như: tài liệu pháp lý (quốc tịch, tuổi, nơi cư trú, …), các tài liệu thông tin (nghề nghiệp, nguồn thu nhập, thu nhập hàng tháng, tình trạng gia đình, học vấn…), các tài liệu thuyết minh khoản tín dụng (nhu cầu chi phí, mức vốn tự có, nhu cầu tài trợ, …)

+ Các tài liệu đảm bảo cho khoản tín dụng

- Kỹ thuật thẩm định trong cho vay trực tiếp:

Có 2 phương pháp là phương pháp phán đoán và phương pháp hệ thống điểm số.

+ Phương pháp phán đoán:

Là một quá trình trong đó, ngân hàng tiến hành phân tích, đánh giá tất cả các thông tin định tính và định lượng về khách hàng nhằm mục tiêu hạn chế bớt các khoản vay có nhiều rủi ro.

Nội dung của các yếu tố nhằm thẩm định trong cho vay tiêu dùng cũng gần giống như trong các loại cho vay khác, tuy nhiên có một số điều chú ý sau:


Đánh giá đặc điểm của khách hàng và khả năng thanh toán: Nhân viên tín dụng phải tiến hành điều tra, xem xét để đảm bảo rằng khách hàng vay vốn có ý thức rõ ràng về trách nhiệm hoàn trả đầy đủ và đúng hạn các khoản nợ.

Về khả năng thanh toán: người vay phải có thu nhập hoặc tài sản có giá trị đủ để đảm bảo rằng họ có khả năng hoàn trả khoản vay.

Đánh giá đặc điểm cơ bản của khách hàng thông qua mục đích của việc vay tiền: Khách hàng dùng khoản tiền vay vào việc gì? Mục đích sử dụng vốn đó có hợp với chính sách cho vay của ngân hàng không? Có bằng chứng nào cho thấy khách hàng sẽ không hoàn trả khoản vay đó không?

Đánh giá mức thu nhập: Những khách hàng có mức lương cơ bản và mức thu nhập ròng còn lại sau khi trang trải các khoản chi phí sinh hoạt hàng ngày cao sẽ được đánh giá cao. Cán bộ tín dụng phải xác minh mức thu nhập của khách hàng, yêu cầu khách hàng cung cấp: Hợp đồng lao động, xác nhận lương từ ban lãnh đạo DN, hợp đồng cho thuê nhà, thuê xe, giấy phép kinh doanh…của người vay và người cùng trả nợ.

Sự ổn định về việc làm và nơi cư trú. Hoạt động đảo nợ.

Cần kiểm tra những bằng chứng về việc quy mô của các khoản nợ tăng so với thu nhập hàng năm, hàng tháng của khách hàng cũng như với tình trạng số dư của tài khoản thẻ tín dụng tăng nhanh hay tình trạng séc phát ra bị gửi trả lại.

Khi đánh giá một đơn xin vay tiêu dùng, các yếu tố chính sau mà cán bộ tín dụng cần chú ý:

Bằng chứng về việc họ có việc làm và nơi cư trú ổn định.

Các thông tin và số liệu trên lá đơn phải nhất quán và trung thực. Mục đích sử dụng khoản vay hợp pháp.

Bằng chứng về việc có thể quản lý, sử dụng khoản vay có hiệu quả. Triển vọng tốt về việc làm ổn định.

+ Phương pháp hệ thống điểm số:


Hệ thống điểm số là một tập hợp các tiêu thức khác nhau liên quan đến từng khách hàng vay tiêu dùng. Mỗi tiêu thức có một điểm số khác nhau tùy theo tình trạng của mỗi tiêu thức này và tầm quan trọng của nó trong hệ thống các tiêu thức, dựa trên cơ sở thống kê kết quả trong lịch sử.

Hệ thống điểm tín dụng thường dựa trên cơ sở các mô hình đặc biệt hoặc một số kỹ thuật có liên quan trong đó có một vài biến số sẽ được kết hợp lại để đánh giá. Những biến số quan trọng nhất là: xếp hạng chất lượng tín dụng; Tuổi tác, tình trạng hôn nhân, số người ăn theo; Số nhà cửa sở hữu, thu nhập ròng; Có điện thoại hay không; Số lượng và loại tài sản; Loại nghề nghiệp, thời gian làm việc tại chỗ làm hiện tại.

Ưu điểm của hệ thống điểm tín dụng:

Loại bỏ hoàn toàn những đánh giá mang tính cá nhân, làm giảm thời gian xét duyệt, giúp giải quyết nhanh chóng một số lượng lớn yêu cầu vay mà không cần nhiều sức người, làm giảm chi phí hoạt động

Có thể đây là cách đánh giá hiệu quả thay thế cho việc sử dụng cán bộ tín dụng thiếu kinh nghiệm, điều này làm giảm các khoản nợ khó đòi.

Nhược điểm:

Các thông tin về người vay được dùng trong hệ thống điểm số là những thông tin trong quá khứ, vì vậy có thể không phản ánh chính xác tư cách tín dụng của người đi vay trong hiện tại và tương lai.

Các thông tin dùng trong hệ thống điểm số bị phiến diện vì chỉ là các thông tin thống kê về những người đi vay đã được ngân hàng chấp thuận cho vay.

Phương pháp này dựa trên cơ sở số đông, và như vậy có thể bỏ qua các trường hợp khách hàng có hoàn cảnh đặc biệt.

- Một số cách phân loại khác

Những loại cho vay dành cho cá nhân và hộ gia đình

Có một số loại cho vay tiêu dùng khác nhau và số lượng các loại tín dụng tiêu dùng đang tăng lên cùng quá trình phi quản lý hóa các tổ chức tiền gửi ở Mỹ cũng như ở các nước công nghiệp phát triển khác. Chúng ta có thể phân loại các


khoản cho vay tiêu dùng dực vào mục đích hoặc dựa vào kiểu cho vay (ví dụ như loại cho vay đó sẽ được thanh toán làm nhiều lần hay chỉ trong 1 lần). Một cách cách phân loại phổ biến là kết hợp cả 2 tiêu thức mục đích và phương thức cho vay.

Ví dụ: các khoản tín dụng dành cho cá nhân và hộ gia đình có thể được chia thành 2 loại: cho vay mua nhà thế chấp trong đó người vay dùng tiền mua nhà và cho vay không để mua nhà như vay để đi nghỉ, mua ô tô,…

Cho vay mua nhà thế chấp

Các khoản vay dùng để mua nhà hoặc tu sửa nơi nơi cư trú được xếp vào cho vay mua nhà thế chấp. Việc mua các bất động sản dưới hình thức nhà cửa hoặc khi căn hộ cho nhiều gia đình thường làm tăng nhu cầu vay vốn dài hạn và các khoản này sẽ được đảm bảo bằng chính bất động sản đó. Những khoản vay đó bao gồm cả loại mang lãi suất cố định và lãi suất thả nổi được điều chỉnh theo một mức lãi suất cơ sở hoặc theo mức lãi suất cho vay mua nhà quốc gia.

Cho vay không thế chấp

Ngược với những khoản cho vay mua nhà thế chấp là khoản cho vay mua nhà không thế chấp dành cho cá nhân và hộ gia đình. Trong những năm gần đâ, tại Mỹ, 1 tỉ lệ lớn các khoản cho vay tiêu dùng không thế chấp được thực hiện thông qua các công ty tài chính thược cùng 1 công ty sở hữu ngâ hàng. Đây là một lợi thế rất lớn vì không hề có một giới hạn về địa lý nào đối với việc thiết lập các trụ sở của công ty tài chính, trong khi việc mở chi nhánh ngân hàng có khi lại bị luật ngân hàng hạn chế.

Cho vay theo thẻ tín dụng

Ngày nay, người ta có thể dễ dàng nhận được một khoản tiêu dùng thông qua thẻ tín dụng do công ti VISA, Mastercard và 1 vài ngân hàng nhỏ hơn. Những người sở hữu thẻ tín dụng có thể vay trả dần hoặc 1 lần vì họ có thể tính tiền mua hàng vào tài khoản thẻ tín dụng của mình. Khác hàng có thể thanh toán hết trước khi hóa đơn đến ngân hàng và do đó sẽ không phải trả chi phí tài chính (lãi suất) khoản từ 12% đến 18%. Thẻ tín dụng cung cấp một dòng tín dụng thường xuyên và quay vòng mà khác hàng có thể sử dụng bất cứ khi nào họ có nhu cầu. Tuy nhiên

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 17/04/2023