động từ trong nước sẽ bảo đảm khoảng 60 - 65%, phần còn lại huy động từ các nguồn vốn bên ngoài. Yêu cầu phát triển nền kinh tế xã hội trong 10 năm 2001 - 2010 đã đưa tới cho lĩnh vực thu hút và sử dụng ODA những thách thức không nhỏ.
Thứ nhất, theo chiến lược phát triển kinh tế xã hội đến năm 2010, dự kiến tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế đạt mức trung bình 7,2%/năm. Như vậy, quy mô của nền kinh tế sẽ tăng gấp 2 lần trong vòng 10 năm tới, làm cho mức thu nhập quốc dân tính cho một người dân cũng sẽ tăng lên gấp 2 lần (theo giá so sánh và có tính đến tốc độ tăng trưởng dân số). So với năm 2000, thu nhập quốc dân theo đầu người (GDP/người) đạt khoảng 400 USD, thì đến năm 2010, GDP/người của Việt Nam sẽ đạt khoảng trên 1000 USD (giá hiện hành). Khi đó, Việt Nam sẽ bước qua ngưỡng cửa của một nước nghèo đói, do vậy điều kiện tiếp nhận vốn ODA sẽ trở nên khắt khe hơn có nghĩa là tính chất ưu đãi từ nguồn vốn vay này sẽ giảm đi đáng kể thể hiện rõ nét qua việc lượng vốn ODA không hoàn lại sẽ không còn chiếm tỷ trọng cao như những năm trước đó và mức độ ưu đãi của vốn vay ODA sẽ giảm bớt do mức lãi suất ưu đãi sẽ không còn thấp nữa. Điều đó làm cho việc thu hút vốn ODA từ các nhà tài trợ sẽ càng trở nên khó khăn hơn. Vì vậy, yêu cầu đặt ra là phải đẩy mạnh tốc độ giải ngân vốn ODA hiện nay, tận dụng những ưu đãi hiện có để gia tăng niềm tin với cộng đồng tài trợ.
Thứ hai, việc sử dụng vốn ODA có hoàn lại buộc phải tính đến khả năng trả nợ. Đến năm 2003, Việt Nam bắt đầu phải trả nợ nước ngoài, và các khoản trả nợ ngày càng gia tăng do có sự tích luỹ về thời gian. Việc trả nợ vốn vay ODA là trách nhiệm của Nhà nước, và nguồn để trả nợ được trích từ tổng thu nhập quốc dân. Vì vậy tỷ lệ tích luỹ cho đầu tư trong giai đoạn tiếp theo sẽ bị giảm sút, dẫn đến tốc độ tăng trưởng GDP giảm. Điều này cũng đặt ra yêu cầu phải gia tăng tốc độ giải ngân vốn ODA trong giai đoạn trước mắt.
3.1.2.2. Khả năng vận động và ký hiệp định ODA thời gian tới.
Thực hiện chính sách đa dạng hoá, đa phương hoá, trong giai đoạn tới chúng ta sẽ tiếp tục phát triển quan hệ hợp tác phát triển với các nhà tài trợ truyền thống. Căn cứ vào xu hướng hợp tác của các nhà tài trợ với Việt Nam, khả năng vận động ODA thời kỳ 2005 - 2010 như sau:
Bảng 3.1. Dự kiến khả năng vận động ODA thời kỳ 2005 - 2010
Đơn vị: Triệu USD
2005 - 2010 | ||
Tổng số | Trong đó : vay | |
Tổng số | 13760 | 11595 |
Nhật Bản | 4500 | 3875 |
Ngân hàng thế giới (WB) | 3000 | 3000 |
Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) | 2400 | 2370 |
Các nhà tài trợ song phương khác | 2700 | 1900 |
Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) | 450 | 450 |
Các tổ chức phi chính phủ(NGO) | 400 | - |
Các tổ chức liên hợp quốc(UN) | 310 | - |
Có thể bạn quan tâm!
- Giải Ngân Của 10 Nhà Tài Trợ Hàng Đầu, 1993 - 2004
- Một Số Hạn Chế Và Những Nguyên Nhân:
- Mục Tiêu Phát Triển Kinh Tế Xã Hội 10 Năm Tới 2001 - 2010
- Một Số Giải Pháp Thúc Đẩy Tiến Trình Giải Ngân Vốn Oda
- Hoàn Thiện Quy Trình Rút Vốn Và Thủ Tục Giải Ngân.
- Thống Nhất Chính Sách Thuế Đối Với Các Dự Án Oda.
Xem toàn bộ 141 trang tài liệu này.
Nguồn: Bộ Kế hoạch và đầu tư, Bộ Tài chính (2004)
Nhật Bản
Chiến lược toàn cầu ODA của Nhật Bản: Chính phủ Nhật Bản đang có chiến lược gây ảnh hưởng ở Châu Á. Các nước Châu Á, đặc biệt là Đông Á là khu vực được coi trọng trong Chiến lược cung cấp ODA trung hạn của chính phủ Nhật Bản. Tại Hội nghị thượng đỉnh G7 tại Okinawa tháng 7/2000, Chính phủ Nhật Bản khởi xướng 2 chương trình toàn cầu hỗ trợ các nước đang phát triển, bao gồm cả hợp tác phát triển (ODA) và các nguồn vốn khác, đó là: - Phát triển công nghệ thông tin (Nhật Bản đóng góp 30 tỷ USD);
- Phòng chống bệnh lây nhiễm (trong đó Nhật Bản góp 15 tỷ USD). Khu vực Châu Á được xem là khu vực Nhật Bản ưu tiên sử dụng các khoản hỗ trợ này.
Đối với Việt Nam, theo thoả thuận giữa hai nước, sự hợp tác phát triển Việt Nam và Nhật Bản được tập trung vào 5 lĩnh vực sau:
- Phát triển nguồn nhân lực và xây dựng thể chế, trong đó chú trọng hỗ trợ chuyển sang nền kinh tế thị trường.
- Hỗ trợ xây dựng và cải tạo các công trình điện và giao thông vận tải.
- Hỗ trợ phát triển nông nghiệp, nhất là phát triển cơ sở hạ tầng ở nông thôn và chuyển giao công nghệ.
- Hỗ trợ phát triển giáo dục - đào tạo và y tế.
- Hỗ trợ bảo vệ môi trường.
Dự kiến trong giai đoạn 2005 - 2010, khả năng vận động ODA Nhật Bản của Việt Nam là 9,5 - 10 tỷ Yên, tương đương khoảng 800 triệu USD/năm, trong đó khoảng 125 triệu USD là viện trợ không hoàn lại. Rõ ràng là trong giai đoạn tới, Nhật Bản vẫn là nhà cung cấp vốn ODA rất lớn cho Việt Nam.
Ngân hàng thế giới
Trong 12 năm qua, tài trợ của WB cho Việt Nam luôn chiếm vị trí thứ hai sau Nhật Bản cả về số lượng dự án và giá trị dự án. Nhằm nâng cao tính hiệu quả của các nguồn viện trợ cho Việt Nam, tăng cường phối hợp giữa các nhà tài trợ để giảm bớt sự trùng lặp và hỗ trợ nhau giữa các nguồn tài trợ, năm 1998 WB đã xây dựng Chiến lược hỗ trợ quốc gia (CAS) đối với Việt Nam. Chương trình này hỗ trợ cho 7 lĩnh vực ưu tiên của Chính phủ Việt Nam như sau:
- Tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô và tính cạnh tranh
- Tăng cường khu vực tài chính
- Cải cách các doanh nghiệp quốc doanh
- Tăng cường năng suất thông qua cơ sở hạ tầng
- Thúc đẩy phát triển nông thôn và tăng cường bảo vệ môi trường.
- Đầu tư vào con người và tăng cường công bằng xã hội
- Cải cách nền hành chính, tăng cường tính công khai và sự tham gia.
Ngoài ra CAS nêu rõ các mục tiêu và sự chuyển hướng trong chiến lược hỗ trợ của WB, qua đó WB chuyển hướng sang hỗ trợ cho các chương trình
lớn của chính phủ thay vì chỉ tập trung vào các dự án cụ thể như trước đây. Từ chiến lược này, WB đã ưu tiên hỗ trợ cho các lĩnh vực:
- Giảm nghèo và Quản lý kinh tế
- Phát triển nhân lực
- Sự phát triển bền vững với môi trường và xã hội.
- Tài chính, khu vực tư nhân và hạ tầng cơ sở.
Mức tín dụng WB dành cho Việt Nam trong các năm tới theo 2 phương án (tuỳ thuộc vào kết quả thực hiện các chương trình cải cách có tính chất vĩ mô; cải cách ngân hàng, thương mại, doanh nghiệp nhà nước,…)
+ Phương án 1: Mức bình quân 500 triệu USD/ năm với 5 - 6 dự án.
+ Phương án 2: Mức bình quân khoảng 600 - 800 triệu USD/năm với 6 - 8 dự án.
Ngân hàng phát triển châu Á (ADB)
Hiện nay ADB đã phối hợp với Việt Nam soạn thảo chiến lược hoạt động của ADB tại Việt Nam thời kỳ 2001 - 2005. Trong 5 năm này và tiến tới năm 2010, mỗi năm ADB cung cấp cho Việt Nam 240 triệu USD vốn ADF và 100 triệu USD vốn OCR. Mục đích các hoạt động trong tương lai của ADB sẽ nhằm vào thúc đẩy tăng trưởng và chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng giảm nghèo và bền vững. Với mục đích này, ADB sẽ tập trung có lựa chọn các hoạt động vào 3 lĩnh vực then chốt:
- Tăng trưởng kinh tế bền vững định hướng giảm nghèo, sẽ được tăng cường thông qua hỗ trợ các cuộc cải cách chính sách trong ngành nông nghiệp và tài chính, phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) và phát triển cơ sở hạ tầng.
- Phát triển xã hội
- Công tác điều hành tốt: ADB sẵn sàng hỗ trợ Việt Nam trong lĩnh vực cải cách hành chính công (PAR) thông qua việc cung cấp các khoản vốn vay bên cạnh các khoản hỗ trợ kỹ thuật.
- Khu vực địa lý ưu tiên: ADB tập trung vào khu vực miền Trung, trong đó tập trung chính vào vùng ven biển Bắc Trung Bộ và Tây Nguyên.
Các nhà tài trợ khác
Trong thời gian qua, số lượng viện trợ của các nhà tài trợ khác cung cấp cho Việt Nam luôn giữ ở mức 20 - 30% tổng lượng vốn ODA. Dự kiến giai đoạn tiếp theo 2005 - 2010, tỷ lệ này ít thay đổi trong điều kiện vay với lãi suất kém ưu đãi hơn hoặc có thể biến động theo chiều hướng giảm đôi chút so với hiện nay. Nguyên nhân của tình trạng này thể hiện trên khía cạnh:
- Một số nhà tài trợ song phương tương đối lớn, do có khó khăn tài chính trong nước, có thể không duy trì được sự gia tăng ODA dành cho Việt Nam như những năm qua.
- Những chuyển biến của nền kinh tế Việt Nam khi bước sang thế kỷ 21 đòi hỏi chúng ta phải cần phát huy vai trò nội lực cho sự nghiệp phát triển đất nước, khi đó chính sách cung cấp ODA cho Việt Nam của các nhà tài trợ vẫn còn cung cấp vốn vay ưu đãi chắc chắn sẽ trở nên kém ưu đãi hơn so với hiện nay.
Các tổ chức Liên Hợp Quốc
Từ năm 1992 tới nay, mức hỗ trợ của các tổ chức này cho Việt Nam ổn định ở mức 60 - 70 triệu USD/năm chủ yếu thông qua loại hình hỗ trợ kỹ thuật.
Lĩnh vực hợp tác giữa các tổ chức LHQ với Việt Nam chủ yếu dưới dạng các chương trình với những mục tiêu đa dạng, xây dựng được mối quan hệ hợp tác đáng tin cậy với Chính phủ Việt Nam. Mặc dù giá trị giải ngân hàng năm của LHQ chưa cao (đứng thứ 5 trong số các nhà tài trợ cho Việt Nam), nhưng tổ chức này vẫn giữ vai trò quan trọng do tính chất không hoàn lại và trung lập của các hình thức viện trợ. LHQ có vai trò xúc tác, làm hạt nhân vận động các nhà tài trợ khác về ODA vào một số lĩnh vực của Việt Nam.
Do nhiều nguyên nhân khác nhau, nguồn vốn hỗ trợ của các tổ chức LHQ cho các nước, trong đó có Việt Nam sẽ có xu hướng giảm xuống. Dự kiến, tổng kinh phí các chương trình hợp tác giữa các tổ chức LHQ với Việt Nam trong giai đoạn 2005 - 2010 khoảng trên dưới 300 triệu USD.
Hợp chủng quốc Hoa Kỳ
Thời gian gần đây, Hoa Kỳ được nhắc tới khá nhiều trong chính sách kinh tế quốc tế của Việt Nam. Hoa Kỳ cùng với Nhật Bản hiện là hai nhà tài trợ song phương lớn nhất trên thế giới. Sở dĩ sự hỗ trợ của Hoa Kỳ ở Việt Nam trong những năm qua còn hạn chế là do tàn dư của quá khứ để lại. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của xã hội, Việt Nam muốn làm bạn với các nước trên thế giới. Chính phủ Hoa Kỳ cũng đã xem xét lại chính sách đối với Việt Nam và bắt đầu quay lại quan hệ với Việt Nam như là một đối tác phát triển. Từ khi từ bỏ cấm vận đối với Việt Nam từ năm 1994, thiết lập quan hệ ngoại giao bình thường và mới đây đã ký hiệp định thương mại với Việt Nam, Hoa Kỳ hay còn gọi là nước Mỹ đang dần trở nên bình thường hoá với Việt Nam.
Trong lĩnh vực hỗ trợ phát triển, viện trợ của Mỹ đối với Việt Nam mới giới hạn ở viện trợ nhân đạo với mức giải ngân khoảng 5 - 6 triệu USD mỗi năm. Trong giai đoạn tới, khả năng cung cấp ODA của Mỹ cho Việt Nam sẽ có chiều hướng tăng lên và để khai thông nguồn ODA này, Việt Nam cần có những chính sách đồng bộ hơn để Hoa Kỳ trở thành nhà tài trợ lớn cho Việt Nam trong những năm đầu của thế kỷ 21.
Như vậy, qua những phân tích trên có thể dự kiến rằng, trong thời gian tới, Nhật Bản, WB và ADB vẫn sẽ là những nhà cung cấp vốn ODA chủ yếu cho Việt Nam. Trong tương lai Mỹ và các tổ chức tài chính quốc tế sẽ tham gia cung cấp vốn ODA cho Việt Nam nhiều hơn nữa. Trong đó, dự kiến phân bổ vốn ODA của các nhà tài trợ như sau: Vốn ODA của Nhật Bản chủ yếu sẽ tập trung vào miền Bắc Việt Nam và trọng tâm là Hà Nội; vốn ODA của Mỹ sẽ tập trung chủ yếu vào Nam Việt Nam; vốn ODA của các tổ chức tài chính
chủ yếu tập trung vào miền Trung; WB và ADB tài trợ đồng đều cho các địa phương của Việt Nam là các dự án tiểu vùng như Đông Dương hay khu vực sông Mê Kông.
3.1.3. Mục tiêu, quan điểm sử dụng nguồn vốn ODA.
3.1.3.1 Mục tiêu sử dụng ODA
Trong giai đoạn mới, giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế, nước ta tiếp tục thực hiện chính sách nền kinh tế mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các mối quan hệ kinh tế với bên ngoài và hướng nền sản xuất vào xuất khẩu. Do vây, mục tiêu sử dụng vốn ODA trong thời gian này được xác định như sau:
Một là, sử dụng ODA có hiệu quả và chất lượng cao, phù hợp với yêu
cầu giai đoạn mới phát triển đất nước, giai đoạn CNH - HĐH, tiếp tục xây
dựng
cơ sở vật chất - kỹ thuật của Chủ nghĩa xã hội. Muốn vậy, trước hết vốn ODA phải được tài trợ cho các chương trình dự án có độ ưu tiên cao nhất, bố trí giữa các ngành và các lĩnh vực theo một cơ cấu hợp lý được quản lý sao cho tránh được lãng phí và thất thoát vốn. Định hướng sử dụng nguồn ODA giai đoạn 2001 - 2010 đã được thể hiện rõ trong văn kiện Đại hội lần thứ 9 của Đảng Cộng sản Việt Nam: "Thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ODA. Định hướng trong 5 năm tới dành khoảng 15% vốn ODA vào các ngành nông nghiệp, thuỷ lợi, lâm nghiệp, thuỷ sản, kết hợp mục tiêu phát triển nông nghiệp, nông thôn, xoá đói giảm nghèo, 25,7% cho các ngành năng lượng và công nghiệp, 23,7% cho ngành giao thông, bưu điện, cấp thoát nước và đô thị. Coi trọng sử dụng vốn ODA trong các lĩnh vực phát triển nguồn nhân lực, xã hội, giáo dục đào tạo khoa học công nghệ và bảo vệ môi trường".
Hai là, đáp ứng tốt nhất nhu cầu phát triển xã hội. Về mặt giá trị, cùng với tổng số vốn trên 13 tỷ USD vận động, mục tiêu giải ngân cho giai đoạn 2005 - 2010 là phải đạt được từ 11 - 12 tỷ USD, tương đương với 1,8 - 2 tỷ
USD/năm, và duy trì mức giải ngân từ 1,8 tỷ USD tới 2 tỷ USD/năm cho đến năm 2010. Nghĩa là trong cả chiến lược 10 năm, chúng ta cần phải đưa vào thực hiện 18 tỷ - 20 tỷ USD cho công cuộc đầu tư xây dựng đất nước.
Nếu so sánh với mức độ giải ngân đã thực hiện giai đoạn 1996 - 2004 với mức trung bình 1,25 tỷ USD/năm (với năm cao nhất là 1,65 tỷ USD) thì mục tiêu 1,8 ữ 2 tỷ USD/năm là cao hơn khá nhiều. Tuy nhiên, mục tiêu đó không phải là không thực hiện được vì mức giải ngân các năm gần đây đã tăng đáng kể với tốc độ trung bình 15%/năm.
Gắn liền với chuyển giao vốn là chuyển giao công nghệ, phương thức quản lý tương đối tiên tiến. Các dự án ODA thuộc khu vực hạ tầng kinh tế góp phần tạo ra môi trường kinh tế thuận lợi để huy động các nguồn vốn khác (vốn của doanh nghiệp nhà nước, tư nhân, nguồn vốn FDI) đầu tư vào các ngành sản xuất kinh doanh. Các dự án ODA trong lĩnh vực giáo dục đào tạo, văn hoá xã hội phục vụ phát triển nguồn nhân lực không chỉ cần thiết cho giai đoạn trước mắt, mà còn đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm (2001 - 2010) và xa hơn nữa. Các dự án tăng cường thể chế nhằm vào hoàn thiện môi trường pháp lý cần thiết cho quá trình cải cách kinh tế.
Như vậy, mục tiêu đáp ứng tốt nhất nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của vốn ODA không chỉ được thực hiện thông qua các chương trình dự án cụ thể, mà quan trọng hơn là thông qua tác dụng tổng hợp của nguồn vốn này đối với môi trường phát triển, không chỉ trước mắt, mà cho cả tương lai.
3.1.3.2. Một số quan điểm trong việc sử dụng vốn ODA
Quan điểm về xác định nguồn cung cấp ODA
Việt Nam luôn giữ vững quan điểm của mình về thu hút nguồn vốn ODA: Tranh thủ mọi nguồn ODA không gắn với các ràng buộc về chính trị, phù hợp với chủ trương đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ kinh tế đối ngoại của Việt Nam. Điều đó có nghĩa chúng ta cần tranh thủ tận dụng các cơ