cũng như vốn đối ứng theo chương trình dự án. Do vậy, nguồn vốn này thường bị hạn chế bởi tổng mức chi sự nghiệp của các Bộ và địa phương.
Tuy nhiên, cũng có những dự án mặc dù vốn đối ứng đã được cân đối đủ cho cơ quan chủ quản khi lập kế hoạch, song khi triển khai thực hiện cụ thể, vốn đối ứng cấp cho các dự án còn chậm, ví dụ: dự án khôi phục quốc lộ 1 giai đoạn 3 (vốn WB), dự án bảo vệ rừng và phát triển nông nghiệp (vốn WB), dự án đường Xuyên Á (vốn ADB),…
Thứ tư, vướng mắc về thủ tục tài chính đối với dự án ODA
Trước năm 1995, do mới tiếp cận công tác quản lý ODA với các thủ tục phức tạp của nhà tài trợ, thủ tục đầu tư trong nước và trình độ, kinh nghiệm của cán bộ quản lý còn hạn chế nên khâu xét duyệt hồ sơ để rút vốn và luân chuyển chứng từ còn chậm.
Đến nay, Bộ Tài chính đã ban hành Quy chế về thủ tục rút vốn ODA, theo đó thời gian xác nhận hồ sơ hợp lệ và làm thủ tục để rút vốn tối đa từ 5 - 8 ngày. Tuy nhiên, tiến độ rút vốn lại phần lớn phụ thuộc vào tiến độ thực hiện các dự án và thời gian tập hợp đầy đủ hồ sơ rút vốn hợp lệ của các chủ dự án, mà thời gian này phải phù hợp với thoả thuận cam kết được các nhà tài trợ quốc tế chấp nhận Thường là nhà thầu lập hồ sơ thanh toán gửi cho tư vấn, sau 20 đến 28 ngày, tư vấn mới xác nhận gửi cho chủ đầu tư. Chủ đầu tư xem xét và duyệt hồ sơ khoảng 10 ngày, có trường hợp hàng tháng, sau đó bộ chứng từ mới được chuyển đến Bộ Tài chính để làm thủ tục rút vốn đối với phía nước ngoài.
Các điều kiện tín dụng của các nước và các tổ chức rất khác nhau, song trước đây chưa có chính sách cho vay lại trong nước nhất quán nên đối với mỗi khoản vay lại phải xây dựng một cơ chế tài chính riêng, điều này gây phức tạp cho việc thực hiện hiệp định, hợp đồng. Đến nay, Bộ Tài chính đã ban hành quy định về cơ chế cho vay lại đối với nguồn vốn ODA, song vẫn còn có một số điểm chưa phù hợp.
Bên cạnh đó, hệ thống kho bạc chưa đáp ứng được yêu cầu thanh quyết toán của dự án, thiếu cán bộ giải ngân giải quyết nhiều thủ tục vướng mắc.
Thứ năm, các vướng mắc trong công tác đấu thầu.
Sau khi dự án có hiệu lực, công tác đấu thầu mua sắm, xây lắp, cung cấp hàng hoá, dịch vụ tư vấn là công việc trọng tâm và chiếm phần đáng kể thời gian hoạt động của dự án. Nhưng ở khâu này thường nảy sinh nhiều vướng mắc như:
Việc tổ chức đấu thầu mua sắm và xây lắp thường bị kéo dài do Việt Nam mới bắt đầu làm quen với các nguyên tắc và điều kiện đấu thầu theo thông lệ quốc tế (như dự án điện Phả Lại, dự án điện Phú Mỹ vay vốn của Nhật có thời gian đấu thầu kéo dài trên 2 năm).
Có thể bạn quan tâm!
- Giải Ngân Nguồn Vốn Oda Theo Loại Hình Viện Trợ
- Giải Ngân Của 10 Nhà Tài Trợ Hàng Đầu, 1993 - 2004
- Một Số Hạn Chế Và Những Nguyên Nhân:
- Khả Năng Vận Động Và Ký Hiệp Định Oda Thời Gian Tới.
- Một Số Giải Pháp Thúc Đẩy Tiến Trình Giải Ngân Vốn Oda
- Hoàn Thiện Quy Trình Rút Vốn Và Thủ Tục Giải Ngân.
Xem toàn bộ 141 trang tài liệu này.
Việc chuẩn bị tài liệu đấu thầu chưa tốt một phần do tư vấn nước ngoài thuê chuẩn bị tài liệu thầu không đáp ứng yêu cầu về tiến độ và chất lượng (ví dụ: dự án thoát nước Hà Nội giai đoạn 1 - vốn vay JBIC, dự án đất ngập mặn ven biển - vốn vay WB).
Một nguyên nhân nữa trong công tác đấu thầu là mức giá cả quá cao do buộc phải mua sắm thiết bị từ các nước tài trợ nên Chủ dự án không chấp nhận được. Vì vậy, Bộ Kế hoạch và đầu tư, Bộ chủ quản và các Chủ dự án phải kéo dài dài thời gian đàm phán, thẩm định và ký hợp đồng lại (dự án thuỷ điện sông Hinh vay vốn của Thụy Điển). Trong một số trường hợp phải chuyển đổi sang dự án khác hoặc thay đổi nhà tài trợ (như một số dự án sử dụng vốn vay của Thái Lan, Trung Quốc,…).
Do không có quy định về mức giá sàn trong việc đấu thầu xây lắp nên các nhà thầu bỏ thầu thấp dẫn đến khi trao thầu, nhà thầu không đảm bảo tiến độ và chất lượng. Bỏ thầu thấp dẫn đến việc các nhà tài trợ như WB, ADB, JBIC kiểm soát chặt chẽ quá trình đấu thầu ở tất cả các khâu (sơ tuyển, lập danh sách ngắn)… trong khi đội ngũ cán bộ và năng lực của các nhà tài trợ này tại Việt Nam không đáp ứng yêu cầu, dẫn đến việc phê duyệt kết quả thầu của nhà tài trợ chậm (ví dụ: dự án Quốc lộ 1 giai
đoạn 3 - vay vốn WB, mất gần một năm rưỡi WB mới phê duyệt kết quả sơ tuyển và tư vấn giám sát thi công).
Năng lực thực hiện của các nhà thầu hạn chế: sau khi trao thầu, nhà thầu không triển khai thi công kịp thời, không đảm bảo tiến độ thực hiện và giải ngân dự án (dự án Quốc lộ 1 đoạn Vinh - Đông Hà với vốn vay của WB). Thêm vào đó, quan hệ giữa nhà thầu chính và các nhà thầu phụ chưa được quy định rõ ràng bằng các văn bản pháp quy cũng là nguyên nhân làm chậm quá trình thi công, do vậy làm chậm việc giải ngân cho các dự án.
Thứ sáu, công tác đền bù, giải phóng mặt bằng còn nhiều khó khăn .
Công tác giải phóng mặt bằng và tái định cư đối với các dự án có xây dựng cơ bản gặp nhiều vướng mắc, đặc biệt là đối với các dự án thuộc ngành giao thông vận tải và điện lực.
Nguyên nhân chủ yếu là do các địa phương, các ngành chưa giải quyết dứt điểm các tồn tại về quy hoạch và bàn giao mặt bằng, cơ chế phê duyệt phải qua nhiều cấp. Trong khi chính sách và thủ tục đền bù giải phóng mặt bằng, của các nhà tài trợ (đặc biệt là các dự án sử dụng vốn vay của WB, ADB) khác với chính sách của Việt Nam nên quá trình thương lượng điều chỉnh chính sách để đi đến thống nhất thường kéo dài hàng năm: thủ tục của các nhà tài trợ cũng rất khắt khe, như WB yêu cầu công tác đền bù giải phóng mặt bằng phải thực hiện qua 8 bước đối với dự án Giao thông nông thôn 2 (vốn vay của WB). Có những dự án đã có sự thống nhất về chính sách đền bù giải phóng
mặt bằng, nhưng việc triển khai đền bù của các Chủ dự án lại tiến hành chậm (dự án Quốc lộ 1A, Quốc lộ 5),
Công tác giải phóng mặt bằng thường gắn với các chính sách xã hội như tái định cư, tạo việc làm hoặc đền bù là những vấn đề rất nhạy cảm và phức tạp. Hơn nữa vấn đề năng lực, trình độ cán bộ quản lý thực hiện công việc này
và vấn đề thông tin cũng gây tác động không nhỏ. Nhiều bất cập trong quá trình thực hiện không được thông tin đầy đủ và xử lý kịp thời, dẫn đến làm chậm tiến độ triển khai dự án (chậm bàn giao mặt bằng cho nhà thầu), ví dụ: dự án quốc lộ 18 vốn vay của Hàn Quốc (15 điểm ở Quảng Ninh), dự án quốc lộ 1 (đoạn Pháp Vân - Thường Tín, đoạn Hà Tĩnh), dự án cầu trên quốc lộ 1 (Cầu Đuống bị chậm bàn giao mặt bằng 6 tháng), dự án Nhiệt điện Phả Lại II (mặt bằng kênh thải tuần hoàn giải phóng chậm vì 1000 hộ dân chậm di chuyển để bàn giao mặt bằng)…
Một số dự án lớn hiện nay đang gặp vướng mắc về giải phóng mặt bằng và tái định cư: dự án năng lượng nông thôn (vốn WB), dự án truyền tải phân phối và khắc phục thiên tai (vốn WB), dự án khôi phục lưới điện Hà Nội - Hải Phòng - Nam Định (vốn ADB), dự án Thuỷ lợi đồng bằng sông Hồng (vốn ADB), dự án khôi phục thuỷ lợi miền Trung, dự án thoát nước Hà Nội (vốn JBIC)…
Thứ bảy, chính sách thuế chưa đồng bộ
Việc áp dụng thuế (đánh thuế) đối với các dự án ODA lâu nay chưa được nhất quán và phải xử lý từng trường hợp. Gần đây, Bộ Tài chính đã có văn bản trình Thủ tướng Chính phủ ban hành quy chế về quy định chính sách thuế đối với các dự án sử dụng vốn ODA nhằm khắc phục tình trạng này.
Thứ tám, năng lực của các Ban quản lý dự án chưa đáp ứng được yêu cầu:
Nhìn chung đội ngũ cán bộ quản lý dự án còn thiếu về số lượng và yếu về năng lực, thiếu tính chuyên nghiệp, thiếu chuyên môn và thường kiêm nhiệm nhiều vị trí. Khả năng phân tích, đàm phán hợp đồng của các cán bộ quản lý còn yếu nên quá trình xét thầu, ký kết các hợp đồng mua sắm, xây lắp thường bị kéo dài, thậm chí có những dự án, Ban quản lý chấp nhận thanh toán cho nhà thầu ngoài phạm vi hợp đồng ký (như dự án cải tạo lưới điện bằng vốn vay của WB) nên Bộ Tài chính không thể duyệt hồ sơ thanh toán.
Nhân sự trong các Ban quản lý dự án, đặc biệt ở cấp tỉnh thường thay đổi nên khó khăn cho công tác đào tạo và nâng cao năng lực về quản lý và thực
hiện dự án, ví dụ: dự án giao thông nông thôn 2 (vốn WB); dự án bảo vệ rừng và phát triển nông thôn (vốn WB), dự án dân số, sức khoẻ gia đình (vốn WB), dự án Lâm nghiệp (vốn ADB),…
Ngoài các nguyên nhân cơ bản như đã đề cập ở trên, còn có một số nguyên nhân khác gây chậm trễ cho việc triển khai thực hiện dự án, từ đó dẫn đến chậm giải ngân như thủ tục xin cấp giấy phép nhập khẩu thiết bị cho các dự án ODA, các thủ tục hải quan, thủ tục xin cấp đất xây dựng văn phòng…
Tóm lại, kết quả nghiên cứu ở chương 2 cho thấy tổng mức vốn ODA cam kết, giải ngân đều tăng qua các năm. Kể từ đầu những năm 90 đến nay, số lượng các nhà tài trợ, chương trình và dự án ODA ở Việt Nam liên tục tăng. Hiện nay, có trên 47 tổ chức tài trợ chính thức đang hoạt động tại Việt Nam (26 nhà tài trợ song phương và 21 nhà tài trợ đa phương) với khoảng trên 1500 chương trình, dự án ODA và trên 350 tổ chức phi Chính phủ, theo đó, các hình thức cung cấp ODA vì thế cũng rất phong phú. Quy trình giải ngân vốn ODA về cơ bản đã có sự tăng nhanh về tốc độ và quy mô vốn. Vốn ODA đã được phân bổ đúng hướng: tập trung cho sự phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế và xã hội. Tuy nhiên, cũng đã bộc lộ một số tồn tại cần giải quyết, mà cơ bản là mức giải ngân cũng như tốc độ giải ngân vốn ODA còn chậm.
Như vậy, cho đến nay Việt Nam chưa thực sự khai thác được tối đa hiệu quả sử dụng vốn ODA thể hiện ở mức giải ngân còn thấp. Vấn đề quan trọng nhất đối với chúng ta hiện nay là: phải tăng cường khả năng giải ngân để vừa huy động nguồn vốn cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, vừa tạo ra niềm tin cho các nhà tài trợ vào năng lực giải ngân của Việt Nam, đây cũng là một biện pháp để tăng cường khả năng thu hút ODA vào Việt Nam.
CHƯƠNG 3
GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY GIẢI NGÂN VỐN ODA Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI
3.1. PHƯƠNG HƯỚNG SỬ DỤNG ODA THỜI KỲ 2001 - 2010
3.1.1 Mục tiêu phát triển kinh tế xã hội 10 năm tới 2001 - 2010
Đường lối đổi mới đúng đắn do Đảng Cộng sản Việt Nam đưa ra năm 1986, đã thực sự có hiệu quả kể từ khi bước sang thập kỷ 90. “Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội đến năm 2000” được Đại hội VII Đảng Cộng sản Việt Nam thông qua năm 1991, đã vạch ra những đường đi đúng đắn, giúp nền kinh tế vượt qua những khó khăn thách thức từ trong nước và từ bên ngoài. Nền kinh tế Việt Nam bước sang một trang mới với những thành tựu đáng kể. Việt Nam được đánh giá một trong những nền kinh tế phát triển nhanh nhất thế giới với tốc độ tăng trưởng trung bình trong giai đoạn 1991 - 2004 khoảng 7,6% năm, trong đó năm cao nhất (1995) đạt mức 9,5%; So với năm 1990, tổng GDP năm 2004 đã tăng gấp 2,2 lần, GDP bình quân đầu người tăng gấp 1,8 lần. Cũng trong giai đoạn này, quan hệ của Việt Nam với cộng đồng tài trợ quốc tế đã được chính thức nối lại vào năm 1993. Đến cuối năm 2004, các nhà tài trợ đã cam kết giúp đỡ Việt Nam 28,54 tỷ USD, trong đó khoảng 74% ký Điều ước quốc tế, đã giải ngân được 14,269 tỷ USD.
Xuất phát từ những thành tựu đạt được của nền kinh tế qua hơn 10 năm đổi mới, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm tới đã xác định phương hướng phát triển với nội dung cơ bản là: đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Mục tiêu tổng quát trong chiến lược phát triển kinh tế này đã được tập trung vào các nội dung sau:
- Đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá.
- Tập trung xây dựng có chon lọc một số ngành công nghiệp nặng quan trọng với công nghệ cao, sản xuất tư liệu sản xuất cho nông nghi ệp, công nghiệp và dịch vụ để đến năm 2020 Việt Nam cơ bản sẽ trở thành một nền kinh tế công nghiệp.
- Nâng cao chất lượng đời sống vật chất, văn hoá xã hội.
- Định hình thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Tăng cường nguồn lực con người, năng lực khoa học công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng an ninh.
- Củng cố quan hệ quốc tế.
(Nguồn: UNDP/MPI - Việt Nam hướng tới năm 2000)
Để đạt được các mục tiêu đã đề ra như trong chiến lược, chúng ta cần có những chính sách cụ thể và hợp lý để thực hiện theo hướng:
- Tạo môi trường tăng trưởng: Tăng trưởng kinh tế là một biện pháp kinh tế cơ bản để đạt được mục tiêu phát triển dài hạn. Nhiệm vụ tối quan trọng là xác định các yếu tố quyết định tăng trưởng kinh tế và các chiến lược, chính sách và thể chế khác nhau cần có để đạt được mức tăng trưởng kinh tế cao và bền vững trong thập kỷ tới và sau đó.
- Tăng mức đầu tư: Đầu tư là nhân tố quyết định đến sự tăng trưởng nhanh và bền vững cho Việt Nam trong những năm tới. Chính phủ ước tính mức đầu tư sẽ tăng lên tới 30% GDP. Tỷ lệ này cao hơn trước đây và cao hơn so với tiêu chuẩn quốc tế nhưng không phải là khác thường ở Đông Á và rõ ràng là vẫn còn khiêm tốn nếu so với tỷ lệ đầu tư 37% GDP của Trung Quốc trong những năm 1990. Vậy phần tăng lên trong tỷ lệ đầu tư sẽ lấy từ nguồn nào? Đó chính là nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài: gồm ODA và FDI và vốn trong nước, bao gồm: Vốn của doanh nghiệp nhà nước, vốn ngân sách, vốn nhà nước đã trừ phần ODA và vốn ngoài quốc doanh.
- Nâng cao chất lượng đầu tư: Tăng mức đầu tư đã là một vấn đề quan trọng, nhưng quan trọng hơn lại là đầu tư như thế nào. Thực tiễn đòi hỏi Việt Nam cần có một chính sách hợp lý hơn trong việc thực hiện một cơ cấu đầu tư hiệu quả. Nhất là đối với vốn vay từ bên ngoài, mà đại diện tiêu biểu là vốn vay ODA, việc sử dụng hợp lý và hiệu quả nguồn vốn này luôn là một yêu cầu quan trọng hàng đầu mà các nhà tài trợ đặt ra cho Chính phủ Việt Nam.
- Tăng trưởng bền vững hơn: Việc tăng trưởng cao là cần thiết nhưng vẫn chưa đủ. Tăng trưởng có chất lượng cao phải có nghĩa là sự tăng trưởng mang tính cân đối và bền vững. Việc giảm đói nghèo, cho đến nay vẫn đi liền với mất cân đối tăng lên, chủ yếu là do sự chênh lệch ngày càng tăng giữa nông thôn và thành thị. Mục tiêu lâu dài là chia sẻ thành quả của sự tăng trưởng một cách rộng rãi cho tất cả các tầng lớp dân cư và tránh tình trạng sự bất bình đẳng, tránh việc phân hoá giàu nghèo, tránh sự xuống cấp môi trường
- những vấn đề đi liền với tăng trưởng kinh tế nhanh.
Như vậy, để thực hiện tốt các chỉ tiêu đặt ra của chiến lược phát triển kinh tế trong 10 năm tới, một yếu tố cực kỳ quan trọng đó là tăng tổng đầu tư và thực hiện đầu tư theo một cơ cấu đầu tư hợp lý hơn. Trong bối cảnh vốn trong nước còn hạn chế thì việc tiếp tục thu hút và sử dụng vốn bên ngoài càng trở nên có ý nghĩa hơn. Nguồn ODA sẽ tiếp tục đóng vai trò như là một nguồn vốn từ bên ngoài quan trọng góp phần thực hiện chiến lược phát triển kinh tế của Việt Nam trong thời gian tới.
3.1.2. Nhu cầu và khả năng thu hút vốn ODA của Việt Nam
3.1.2.1. Nhu cầu vốn ODA
Bên cạnh những yếu tố khác, vốn là một yếu tố rất quan trọng để thực hiện được những mục tiêu đề ra. Với mục tiêu tăng trưởng kinh tế trung bình là 7,2%/ năm cho cả kỳ chiến lược 10 năm tới 2001 - 2010, lượng vốn cần thiết theo dự báo vào khoảng 130 - 140 tỷ USD. Trong đó nguồn vốn huy