Giá trị văn học trong tác phẩm của Thiền phái Trúc Lâm - 24


đó, nội dung của tác phẩm cũng được hiển lộ một cách rõ ràng. Người đọc sẽ hứng khởi mà cảm thụ toàn bộ giá trị nghệ thuật văn học được ẩn chứa đằng sau lớp vỏ ngôn từ mang màu sắc Thiền học. (Xem Bảng thống kê Nguồn gốc điển cố ở phần phụ lục 2). Chúng ta tiếp tục khảo sát các thủ pháp nghệ thuật khác mà các tác giả Thiền phái sử dụng trong tác phẩm của họ.

3.3.2. Ẩn dụ

Ẩn dụ là “một hiện tượng ngôn ngữ, đồng thời là một hiện tượng tư duy. Trong nghĩa hẹp, ẩn dụ là biện pháp tu từ (có trong mọi ngôn ngữ), chuyển đặc tính của đối tượng này cho đối tượng khác, theo nguyên tắc có sự tương đồng hoặc tương phản về mặt nào đó giữa chúng. Nếu ở so sánh có mặt cả hai thành phần được so sánh thì ẩn dụ là so sánh ngầm. Ẩn

dụ nổi bật ở tớnh biểu cảm, mở ra khả năng vụ tận cho viecọ nhỡn ra nột gần nhau của những

sự vật, hiện tượng khác xa nhau. Về thực chất ẩn dụ là một cách nghĩ mới về đối tượng; nó có thể phát hiện bản chất ẩn giấu của đối tượng...Với ẩn dụ theo nghĩa rộng, như là kiểu hình tượng liên tưởng do trí tưởng tượng tạo ra ở những tình huống nhất định và nhất là với mục đích biểu cảm thẩm mỹ.” [6, 12 - 13].

Thế nên, hầu hết các thời thuyết giáo của Phật đều để lại rất nhiềâu ẩn dụ giúp người nghe pháp dễ hiểu, dễ nắm bắt và suy niệm thực hành. Trong kho tàng văn học Phật giáo, các bản kinh Nikaya (Nguyên thuỷ) hay Agama (A hàm) cho đến các bộ kinh Đại thừa đều mang theo các hình ảnh ẩn dụ đặc sắc. Pháp Cú - bản kinh được Phật sử dụng thủ pháp ẩn dụ rất ấn tượng đối với người đọc. Như để phân biệt sự trầm luân và giải thoát, Phật dùng ẩn dụ bờ này và bờ bên kia: “Ít người giữa nhân loại, Đến bờ bên kia. Còn số người còn lại, Xuôi ngược chạy bờ này” (Kệ 85).

Phật còn dùng ẩn dụ “ái” là người làm nhà, với “đòn tay” là thân và “kèo cột” là phiền não nghiệp chướng. Cái nhà chính là thân người phiền phức và rối lắm vật liệu xây nên ngôi nhà mang thuộc tính khổ đau: “Lang thang bao kiếp sống, Ta tìm nhưng chẳng gặp. Người xây dựng nhà này, Khổ thay phải tái sinh. Ôi người làm nhà kia, Nay ta đã thấy ngươi. Ngươi không làm nhà nữa, Đòn tay ngươi bị gãy, Kèo cột ngươi bị tan.” (Kệ 153 - 154). Phật còn dùng hình ảnh “dòng sông yêu thương” hay 36 dòng ái để nói lên sức mạnh bền bỉ của lòng yêu thương ái dục: “Dòng ái dục chảy khắp, Như dây leo mọc tràn.” (Kệ


340) và “Ba mươi sáu dòng ái, Trôi người về biển ái. Các tư tưởng tham ái, Cuốn trôi kẻ cuồng si.” (Kệ 339).

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 399 trang tài liệu này.

Chính tham ái đưa đến sự sinh tử triền miên, đoạ lạc trong “tam đồ”. Tại đây, tâm thức của con người trôi chảy như dòng sông đi từ đối tượng này sang đối tượng khác. Sự trôi lăn theo sự khát vọng được yêu thương và mong muốn trở thành như là một yêu cầu luôn có mặt, để rồi hiện khởi mà đức Phật đã chỉ ra có 36 dòng ái “mong rằng tôi có mặt như thế này, mong rằng tôi có mặt khác như thế này” v.v…. Nó trở thành một động lực để thúc đẩy dòng ái vận hành liên tục. Đây chính là nguồn gốc của sinh tử luân hồi. Vì thế, sự vượt qua dòng sông ái dục chính là sự thoát khổ, còn gọi là vượt bộc lưu – dòng thác sinh tử. Phật dạy “Tỳ kheo tát thuyền này, Thuyền không, nhẹ đi mau. Trừ tham, diệt sân hận, Đạt đến cõi Niết bàn.” (Kệ 368).

“Thuyền không” là hình ảnh ẩn dụ cho tâm thức thanh tịnh. Tất nhiên, những ai đi trên con thuyền ấy mới vượt ra khỏi dòng thác sinh tử. Như vậy, ẩn dụ là một trong những phương thức biểu đạt rất phổ quát trong kinh tạng Phật giáo. Hẳn nhiên, những thí dụ trên chỉ là một số trường hợp được trình bày trong kinh, quan trọng là nó đã đi vào đời sống văn học Phật giáo Thiền tông, cụ thể là các phẩm Thiền phái Trúc Lâm như thế nào?

Giá trị văn học trong tác phẩm của Thiền phái Trúc Lâm - 24

Phật giáo Thiền tông nhìn nhận cả khổ đau và hạnh phúc được thiết lập trên cơ sở vận hành của tâm. Khổ đau và hạnh phúc là hai tính chất đặc thù khác biệt, song cả hai là yếu tố đều có khả năng thường trực trong tâm thức. Điều quan trọng, nó hiển thị sự khổ đau hay hạnh phúc đều tuỳ thuộc vào trạng thái của tâm thức. Nói cách khác, đó chính là ý thức, ý chí khát vọng mong chờ của từøng cá thể mà các nhà văn thơ Thiền phái muốn diễn đạt trong các tác phẩm của mình.

Ẩn dụ được sử dụng trong tác phẩm của Thiền phái là nhằm bày tỏ sự thật khổ đau

hay hạnh phúc, vô minh hay giacù ngộ, hai mặt của một vấn đề. Việc sử dụng ẩn dụ để

diễn đạt các phạm trù tâm linh, nhằm tác đọâng người đọc tu tập mạnh hơn. Trong ý nghĩa đó, tác phẩm của Thiền phái ra đời là nhằm giới thiệu thế giới tâm linh vận hành theo chiều hướng giải thoát giác ngộ. Đọc tác phẩm ấy, ta thấy thủ pháp ẩn dụ được thể hiện đậm nét để diễn đạt thế giới tâm thức qua ngôn từ, hình ảnh, từ ngữ cụ thể. Chẳng hạn, khi nói về dục vọng của con người nhấn chìm con người trong sinh tử, Trần Thái Tông đã


dùng hình ảnh ẩn dụ “ái hà” để viết, khiến người đọc xúc động, liên tưởng đến sự chìm đắm trong bể sinh tử để tỉnh thức: “Ái hà xuất một kỷ thời hưu, Hoả trạch ưu tiên hà nhật liễu.” [333, 62] (H 216) (Sóng yêu chìm đắm biết bao thôi, Nhà lửa đốt thiêu ngày nào tắt.) [333, 64].

Hay khi trình bày sự thật khổ đế hai mặt của đời sống thì Trần Thái Tông mô tả qua hình ảnh bốn núi. Tướng bốn núi lại được hiển bày hết sức sinh động bằng bốn mùa vận hành theo năm tháng tuần hoàn “Nhân chi sinh tướng, tuế nãi xuân thì. Tráng tam dương chi hanh thái; tân vạn vật chi tuy vinh. Nhất thiên minh mị, thôn thôn liễu lục đào hồng; vạn lý phong quang, xứ xứ oanh đề điệp vũ.” [333, 42] (H 217) (Tướng sinh của người là mùa xuân trong năm. Khoẻ khoắn thay sự thịnh vượng của dương xuân, mới mẻ thay vẻ tốt tươi

của muôn vật. Một trời sáng đẹp, xóm thôn liễu biecá chốn chốn oanh ca bướm múa.) [333, 45].

đào hồng; muôn dặm phong quang,

Tướng già của con người thì biến đổi theo thời gian năm tháng, dẫu mắt sáng như Ly Lâu, tai tinh như Sư Khoáng, rồi cũng bị chi phối theo định luật vô thường, chẳng khác gì hình ảnh thân cây liễu tiều tuỵ khi mùa thu đến, điêu linh như hoa gặp xuân tàn “Nhân chi lão tướng, tuế nãi hạ thì. Viêm thiên thước thạch, nhi vạn vật giai khô; ổi nhật lưu kim, nhi bách xuyên tương hạc. Tàn hoa sơ liễu, viên trung câu bạn khởi năng lưu; cuồng điệp lưu oanh, diệp hạ chi đầu đồ hướng lão.” [333, 43] (H 218) (Tướng già của người là mùa hạ trong năm. Trời nồng chảy đá nên vạn vật héo khô; nắng bỏng sôi vàng nên trăm sông dốc cạn. Hoa tàn liễu rạc, còn đâu ngòi chảy bên vườn; bướm nhộn oanh bay, luống già cỗi ở đầu cành dưới lá.) [333, 46].

Tướng bệnh của con người như cỏ xanh héo tàn vào mùa thu. Sinh mệnh con người như “ngọn đèn trước treo trước gió”, như “bọt nước trên sông”. Thân thể tiều tuỵ mệt mỏi, bạn bè người thân nhọc công trông nom. Thế nên, Trần Thái Tông viết “Nhân chi bệnh tướng, tuế nãi thu thì. Thích nghiêm sương thuỷ giáng chi thần; giới chúng thảo câu phì chi hậu. Mật lâm mậu thụ, kim phong nhất phiến kỷ phù sơ; thanh chướng thuý phong, ngọc lộ sơ thuỳ tăng lãnh lạc.” [333, 43] (H 219) (Tướng bệnh của người là mùa thu trong năm. Gặp khi sương buốt mới sa; vừa lúc cỏ xanh đều úa. Cây xanh rừng rậm, gió vàng một trận đã tiêu sơ; núi biếc non xanh, móc ngọc vừa rơi thêm lạnh lẽo.) [333, 47].


Tướng chết của con người được ví như mùa đông lạnh giá, mây sầu ảm đạm. Giàu có thông minh, nghèo hèn cùng cực, mỗi khi thân bệnh, vô thường kéo đến, biệt ly có chừa ai. Thế nên, Trần Thái Tông cũng xót xa, lạnh lùng hạ bút: “Nhân chi tử tướng, tuế nãi đông thì. Càn khôn ứng thái tuế nhi chu; nhật nguyệt hướng huyền hiêu nhi hội. Âm tinh cực thịnh, nhất thiên vũ tuyết, cánh phân phi; dương khí tiềm tiêu, bát thuỷ ngưng ba tăng lẫm liệt.” [333, 44] (H 220) (Tướng chết của con người là mùa đông trong năm. Càn khôn ứng thái tuế mà vần xoay; nhật nguyệt ứng huyền hao mà tụ hội. Âm tinh cực thịnh, khắp một trời mưa tuyết bời bời; dương khí tan dần, nước tám tính, đóng băng càng giá lạnh.) [333, 47].

Rõ ràng, khi viết Phổ thuyết Tứ sơn, Trần Thái Tông đã sử dụng hình ảnh ẩn dụ để diễn đạt sự thật về Khổ đế, một chân lý trong Tứ đế. Bằng thủ pháp này, tác giả đã diễn đạt sáng rõ những khái niệm, phạm trù triết lý Phật giáo hết sức trừu tượng, khiến người đọc thấu đạt chân lý, dẫn đến xúc động, bùi ngùi khi tiếp nhận văn bản. Hình ảnh, từ ngữ mang tính ẩn dụ được phô diễn với tần số cao. Có nhiều bài đã thể hiện thủ pháp ẩn dụ nghệ thuật từ đầu đến cuối. Khi diễn bày thế giới tâm linh siêu nghiệm, e rằng ngôn ngữ thực tại khó diễn đạt hết ý nghĩa, thì ngôn ngữ phi thực mang tính ẩn dụ được tác giả khai thác triệt để. Đọc bài Phổ thuyết Hướng thượng nhất lộ sẽ thấy thủ pháp nghệ thuật này được sử dụng thật tài tình: “Lãm trường hà vi nhân thiên tô lạc. Tỵ khổng lý pháp luân thường chuyển; mi mao hạ bảo sát hiện tiền. Ba gian thạch nữ vũ bà sa; xuy địch mộc nhân ca khoản đãi…” [333, 73] (H 221) (Kéo sông dài làm sữa ngọt cho người. Trong lỗ mũi thường chuyển pháp xa; dưới lông mày hiện ra tháp báu. Cô gái đá múa thướt tha giữa sóng; chàng trai gỗ thổi khúc tiêu đón đưa…) [333, 74 - 75]

Đây là thủ pháp thường được sử dụng khá nhiều trong nhà Thiền. Mục đích chính là làm người đọc bừng vỡ ý thức, trực ngộ chân lý. Do đó, Tổ Lâm Tế dùng tiếng thét, tiếng quát, gậy quất để vượt thoát sự câu thúc của ngôn ngữ, sự phân biệt, đối đãi như là biện pháp, phương tiện tạm thời nhưng đầy hiệu quả. Cũng vậy, Trần Thái Tông bằng một loạt hình ảnh phi thực, hình ảnh ẩn dụ, được sử dụng phần lớn là con người hoạt động, chuyển động các vật: “Kéo sông dài làm sữa ngọt”, “Trong lỗ mũi thường chuyển bánh xe pháp”, “Dưới lông mày hiện ra tháp báu”, “Gái đá múa thướt tha giữa sóng”, “Chàng trai gỗ thổi


khúc tiêu đón đưa”… đã đưa người đọc bước ra khỏi thế giới vọng niệm, trực ngộ chân tâm thường tịnh.

Tuệ Tung, Trần Nhân Tông và các thiền sư khác cũng sử dụng các hình ảnh ẩn dụ tương tự như thế “Tác vũ thiết nữ, đả cổ mộc nhân”, hoặc “Mộc nhân vũ thác chi, thạch nữ xuy tất lật”; hoặc “Mộc nhân xướng vô sinh, thạch nữ xuy tất lật” (H 222) (Cô gái sắt nhảy múa, chàng người gỗ đánh trống; hoặc người gỗ múa điệu thác chi, cô gái thổi ống tất lật, hoặc người gỗ hát khúc vô sinh, gái đá thổi ống tất lật) trong Thượng sĩ ngữ lục [333, 314]; “Vô khổng địch, vô huyền cầm” (H 223) (sáo không lỗ, đàn không dây) trong Trúc Lâm đại tôn giả Thượng toạ thính sư thị chúng [333, 658 - 662] để người học đạo tiếp cận Thiền lý bằng sự trực chỉ chân tâm mà không hề có sự can thiệp của tư duy hữu ngã.

Cũng thế, để giải đáp nghi vấn của học trò về việc gia phong của Phật quá khứ, hiện tại, tương lai như thế nào, thiền sư không trả lời trực tiếp mà sử dụng hình ảnh ẩn dụ để người tham vấn tự liễu đạt chân lý: “Viên lâm tịch mịch vô nhân quản, Lý bạch đào hồn tự tại hoa.”; “Bạch thủy gia phong mê hiểu yến, Hồng đào tiên uyển tuý xuân phong.”; “Hải phố đãi triều thiên dục nguyệt, Ngư thôn văn địch khách tư gia.” [333, 494] (H 224) (Rừng vườn vắng vẻ không người quản, Mận trắng đào hồng riêng tự hoa.); (Nước trắng mênh mông chim én lạc, Vườn tiên đào thắm gió xuân say.); (Đợi triều bên bể trăng gần mọc, Nghe sáo thuyền câu khách nhớ nhà.) [333, 496]. Chứng tỏ, ẩn dụ được vận dụng thuần thục, làm cho tác phẩm văn học Thiền sinh động hẳn lên, khắc sâu vào tâm trí người đọc.

Hình ảnh ẩn dụ còn thể hiện dưới hình thức thể loại kệ thơ. Trường An là hình ảnh ẩn dụ chỉ cho con đường thể nhập chân lý. Ở đó, con người bình thường được chuyển hoá thành Phật mà các tác giả Thiền phái khắc hoạ qua hình ảnh sinh động “lô khai hoả lý liên” (đoá sen nở ra trong lò lửa) thật ấn tượng: “Tu tri thế hữu nhân trung Phật, Hưu quái lô khai hoả lý liên.” [333, 259] (H 225) (Nên biết trong đời sinh có Phật, Lạ chi giữa lửa nở sen vàng.) [333, 260].

Chân lý chính là con đường trở về “bản lai diện mục”, là hình ảnh ngôi nhà “nhật viễn gia hương vạn lý trình”, tìm lại “minh châu” vốn đã là gia sản… được tác giả vận dụng tinh xảo, nhiều lần trong tác phẩm: “Xứ xứ lục dương kham hệ mã, Gia gia hữu lộ đáo Trường An. Hồi trình nguyệt hạ nhân hy đáo, Nhất đạo thiềm quang đại địa hàn.” [333, 74]


(H 226) (Chốn chốn dương xanh nên buộc ngựa, Người người có lối đến Trường An. Đường về trăng sáng người thưa vắng, Một ánh trăng đêm lạnh khắp miền.) [333, 75].

Hẳn nhiên, đời sống con người chứng ngộ khác xa đời sống đọa lạc. Con người ở đó sống làm việc, hành trì như mọi người, nhưng tâm thức không còn dao động bởi tâm lý buồn vui, lo âu và sợ hãi. Với một bút pháp như thế, thơ văn của Thiền phái đã diễn tả thế giới an lạc đó qua một số hình tượng sống động, thể hiện tính ẩn dụ, có ý nghĩa biểu tượng mang tính nghệ thuật cao.

Tuy nhiên, xét về mặt kết cấu thì ngoài kết cấu thông thường là kết cấu liên tiến (miêu tả), tự sự hay trữ tình theo trình tự thời gian, các tác giả Thiền phái còn sử dụng các ẩn dụ như là thí dụ để đi đến kết luận, tóm thâu ý tứ Thiền lý ở cuối bài kệ, thơ của bài văn, hoặc các câu trả lời trong niêm tụng kệ, ngữ lục, hay bài kệ, thơ độc lập. Câu kết của tác phẩm ở dạng kết cấu này thường được tiềm ẩn chứ không được minh giải cụ thể. Bởi vì thuộc tính của ngôn ngữ Phật giáo hay ngôn ngữ Thiền tông ngoài việc có giá trị chuyển tải nội dung văn bản còn có giá trị chuyển tải thông điệp hướng đến giải thoát. Do đó, nó chỉ “gợi”, chứ không “tả” để khai mở tâm thức người đọc trực ngộ tâm linh. Đã trực ngộ, thì có lúc rất nhanh là do kết luận ngầm này, là hệ quả tất nhiên sau khi đã đưa ra các thí dụ cụ thể theo chiều hướng tư duy logíc. Nhưng cũng có trường hợp kết luận ngầm này phải được người đọc không chỉ bước ra khỏi tư duy ngã tính với các thông tin dữ liệu có sẵn mà còn phải thực thi “nhiệt tâm, tinh cần” quán chiếu như là một công án, cho đến khi giác tỉnh, chứng ngộ chân lý.

Chẳng hạn, bài kệ kết thúc Phổ thuyết Tứ sơn sử dụng ẩn “lư nhi tam cước” (lừa ba chân), với câu kết ngầm “Mịch kỳ đả thướng cao phong” [333, 42] (H 227) (Lên thẳng non cao sấn bước nhanh.” [333, 45]; bài kệ kết thúc Phổ thuyết Sắc thân có ẩn dụ “vô vị chân nhân” (con người thật, chứng đạo) với câu kết thúc “Thuỳ lộ thiên biên, nhất dạng san.” [333, 54] (H 228) (Núi hiện chân trời, biếc một màu) [333, 56]; bài kệ thúc của “Phổ thuyết Hướng thượng nhất lộ” có ẩn dụ “Trường An” (con đường Trường An) với câu kết “Nhất đạo thiềm quang đại địa hàn.” [333, 74] (Một ánh trăng đêm lạnh khắp miền.) [333, 75] (H

229) của Trần Thái Tông. Hay bài Thủ nê ngưu sử dụng ẩn “nê ngưu” (trâu bùn) của Tuệ Trung với câu kết: Mang mang thuỷ cấp đả viên cầu.” [333, 227] (H 230) (Mênh mông


nước cuộn, quả cầu trôi.) [333, 227]. Hoặc trong Niêm tụng kệ, công án thứ 38, phần tụng, Trần Thái Tông đã sử dụng ẩn “Lư Lăng mễ giá” và có câu kết ngầm Toàn nhiên tổng bất thiệp đồ trình.” [333, 134] (H 231) (Chẳng ai cần mở cuộc hành trình.) [333, 148] để trả lời nghi vấn khi có người hỏi về đại ý Phật pháp.

Giá trị của mỗi tác phẩm bao giờ cũng phải bảo đảm tính nội dung và nghệ thuật thẩm mỹ. Các kết luận ngầm nói trên đã để lại khoảng trống khiến cho người đọc phải tham gia hoạt động văn học trong quá trình tiếp nhận tác phẩm. Hơn nữa, với kết cấu mở, giá trị thẩm mỹ của tác phẩm có dạng kết này sẽ tạo nên sức hấp dẫn, cuốn hút người đọc tuỳ theo sự lĩnh hội của người tiếp nhận. Trên hết, nó tạo sự kết nối giữa tác phẩm, tác giả, và người đọc. Như vậy, ẩn dụ có vai trò quyết định trong nhận thức và trong nghệ thuật. Hiệu quả của việc sử dụng các ẩn dụ trong các tác phẩm nhằm đem lại sự sắc bén và làm sáng rõ ý tưởng. Hẳn nhiên, các ẩn dụ mà thơ văn của Thiền phái sử dụng trong tác phẩm luôn thể hiện tính sáng tạo và cái nhìn độc đáo của người sáng tác; chúng có vai trò làm mới đối tượng, tạo ra hình tượng cảm tính cụ thể nổi bật, biểu hiện được những xúc cảm sinh động mang giá trị tiềm ẩn, gây ấn tượng mạnh cho người đọc. Việc chuyển đổi các dấu hiệu từ đối tượng này sang một đối tượng khác còn mang một giá trị biểu tượng, ước lệ tạo ra sự hình dung mới. Điều này thể hiện tính chất đa nghĩa của của ẩn dụ khi xem nó như là một hình tượng nghệ thuật.

Ta có thể dẫn ra nhiều ẩn dụ nổi bật được vận dụng vào các bài luận thuyết, bài kệ, bài thơ độc lập, các câu trả lời về Thiền lý cho các học trò được diễn đạt bằng thơ trong Niêm tụng kệ, Tụng cổ, Đối cơ, Sư đệ vấn đáp: “Nhất đoá hồng lô hoả lý liên” [333, 273] (H 232) (Trong lò lửa đỏ một bông sen) (Phật tâm ca) của Tuệ Trung; “Vô huyền cầm thượng tấu dương xuân” [333, 123] (H 233) (Đàn không dây gảy khúc dương xuân) [333, 137], “Tranh tự nhất chi vô khổng định” [333, 123] (H 234) (Thôi lấy ống tre thay sáo trúc) [333, 137] (Niêm tụng kệ) của Trần Thái Tông; “Hoàng anh thụ thượng, nhất chi mai” [333, 495] (H 235) (Oanh vàng trong khóm, một cành mai) [333, 497], (Sư đệ vấn đáp) của Trần Nhân Tông… Tất cả đã tạo ra một nét đặc trưng của thơ văn Thiền phái Trúc Lâm khi các tác giả sử dụng thủ pháp nghệ thuật ẩn dụ vào trong tác phẩm.

3.3.3. Thí dụ


Thí dụ là một thủ pháp nghệ thuật ngôn ngữ được dùng diễn đạt về một hình ảnh cụ thể, một trường hợp điển hình để minh hoạ cho một vấn đề nào đó được đưa ra. Trong các thời thuyết giảng của đức Phật đều có những hình ảnh thí dụ nêu ra để minh hoạ cho giáo lý, pháp môn tu tập của Ngài. Mặt khác, khi sử dụng thủ pháp nghệ thuật này, nội dung thuyết giảng sẽ được giải bày cụ thể, bảo đảm tính trong sáng, súc tích và đem lại hiệu quả cao cho người nghe.

Bản kinh Thí dụ có một trăm thí dụ minh hoạ cho một trăm trường hợp thuyết giảng nên có tên gọi bản kinh như thế. Kinh Pháp Cú, Ví dụ tấm vải, Ví dụ cái cưa, Ví dụ lõi cây… [xem 122] được giới nghiên cứu Phật học gọi bản kinh có dấu ấn sử dụng thủ pháp nghệ thuật “thí dụ” trong ngôn ngữ. Khảo sát các bản kinh, ta thấy có nhiều thí dụ dễ hiểu, gần gũi với sự vật, hiện tượng xảy ra, liên hệ trực tiếp đến đời sống như người chăn bò, hoa lài (vassika), vầng trăng, muỗng canh, ruộng vườn, cỏ cây, hoa lá, tấm vải, lõi cây, cái cưa, khúc xương, trời đất, mặt trời… Việc sử dụng các hình ảnh thí dụ mang tính đặc trưng là nhằm chuyển hoá tâm thức chúng sinh ra khỏi vùng tâm lý tham sân si. Mỗi lời kinh, tiếng kệ đều ghi nhận một hình ảnh sinh động, cụ thể để lại dấu ấn tâm linh cho người tiếp nhận. Thông qua mỗi hình ảnh thí dụ tiêu biểu, đức Phật đều gửi gắm đạo lý thiết thực hiện tại cho con người.

Chẳng hạn, bản kinh Pháp Cú [xem 128] ghi “Với gậy người chăn bò, Lùa bò ra bãi cỏ. Cũng vậy, già và chết, Lùa người đến mệnh chung.” (Kệ135); “Như hoa Vassikà, Quăng bỏ cánh úa tàn. Cũng vậy tỳ kheo, Hãy giải thoát tham sân.” (Kệ 377); Kinh Trung Bộ, đức Phật còn sử dụng nhiều thí dụ khác nhau để minh hoạ vấn đề đoạn tận các dục, tu tp gii thoát. Khi nói về các dục hệ luỵ đời sống, đức Phật dùng các thí dụ đầy hình ảnh ấn tượng, khiến người ta sợ hãi để đoạn trừ “Các dục giống như khúc xương, như miếng thịt, như bó đuốc cỏ khô, như hố than rừng, như giấc chiêm bao, như vật dụng, như trái cây chín, như lò thịt, như rắn hai đầu, vui ít khổ nhiều, não nhiều, nguy hiểm càng nhiều hơn.”. Để chỉ cho giáo pháp của đức Phật là phương tiện, chứ không phải cứu cánh thì Phật dùng hình ảnh chiếc bè đưa người qua sông, chứ không phải thờ phượng, mang vác…

Trái với các hình ảnh thí dụ trong kinh Nguyên thủy mang tính hiện thực, cụ thể, thì các thí dụ trong kinh Đại thừa chứa đựng triết lý uyên áo nhằm minh hoạ cho sự vận hành

Xem tất cả 399 trang.

Ngày đăng: 02/02/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí