Các Nước Cơ Cấu Lại Nền Kinh Tế Giai Đoạn “Hậu Khủng Hoảng” Tài


minh bạch hóa và chống tham nhũng, giải quyết tranh chấp giữa Chính phủ nước tiếp nhận đầu tư và nhà đầu tư nước ngoài…FTA “thế hệ mới” có nhiều cam kết về thể chế. Những cam kết này ảnh hưởng trực tiếp và lớn đến thể chế, chính sách pháp luật nội địa của các thành viên tham gia – một bộ phận cấu thành của thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Tính đến năm 2016, Việt Nam đã và đang đàm phán tích cực các FTA với UE (EVFTA); với các nước châu Á - Thái Bình Dương (CPTPP), các nước ASEAN (AEC),…Theo dự kiện, các Hiệp định này sẽ nhanh chóng được ký kết sau đó. Như vậy, Việt Nam tham gia vào các FTA thế hệ mới là xu thế không thể đảo ngược. Điều này ảnh hưởng mạnh mẽ đến việc phát triển nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam trên các khía cạnh:

Thứ nhất, các FTA khi được thực hiện sẽ gia tăng lượng hàng hóa xuất nhập khẩu, đầu tư nước ngoài,…Đòi hỏi Việt Nam phải thay đổi nhiều quan điểm, chính sách về phát triển thị trường, phòng vệ thương mại, bảo hộ DN trong nước,..theo hướng đảm bảo lợi ích đất nước trước làn sóng đầu tư gia tăng. Tuy nhiên, nhưng chính sách này sẽ không đi ngược với các cam kết chung.

Thứ hai, FTA thế hệ mới sẽ buộc Việt Nam phải đổi mới hệ thống pháp luật trong nước trên một loạt các lĩnh vực quan trọng: Các lĩnh vực mà DNNN độc quyền sẽ phải hoạt động theo cơ chế thị trường, có cạnh tranh, minh bạch, mua sắm của chính phủ sẽ phải được đấu thầu công khai, rộng rãi đảm bảo mọi thành phần kinh tế đều có thể tham gia, phương thức đấu thầu sẽ phải theo quy định chung, người lao động được quyền thương lượng tập thể, thành lập công đoàn độc lập trong quan hệ với các chủ DN, môi trường và điều kiện lao động phải được chủ DN quan tâm trong quá trình sản xuất kinh doanh. Những nội dung này bắt buộc phải thực hiện, không có bảo lưu. Chúng khiến cho môi trường kinh doanh của Việt Nam trở nên hoàn thiện hơn, đồng thời phù hợp với những tiêu chuẩn chung của nền KTTT ở các nước trên thế giới, giảm bớt “tính đặc thù” của Việt Nam. Tuy nhiên, cải cách hệ thống pháp luật liên quan đến một ố lĩnh vực nhạy cảm, sẽ ảnh hưởng đến mục tiêu “định hướng XHCN” của nền KTTT cũng như tiến trình thực hiện an sinh xã hội, bảo đảm quyền con người ở Việt Nam.

3.1.1.2. Các nước cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn “hậu khủng hoảng” tài

chính


Khủng hoảng tài chính khởi đầu từ nước Mỹ vào năm 2007, sau đó lan nhanh ra toàn thế giới, gây nên cơn “địa chấn kinh tế” cho toàn nhân loại. Sau khủng hoảng tài chính lại đến khủng hoảng nợ công, bắt đầu từ Hy Lạp, khiến cho nền kinh tế thế giới bước vào chu kỳ suy thoái mới, gây nên nhiều hệ lụy về phương diện chính trị - xã hội, nhất là các trào lưu chống “chủ nghĩa tự do mới”. Chính giới và học giới lúc này cho rằng khủng hoảng kinh tế - tài chính thế giới phản ánh sự thất bại của “chủ nghĩa tự do mới” (neo-liberalism), đó là không còn là khủng hoảng chu kỳ mà là khủng hoảng cơ cấu của chủ nghĩa tư bản. Khủng hoảng tài chính đã đặt thị trường tự do trước thách thức, vai trò của nhà nước can thiệp vào thị trường được tái lập kể cả ở các nước theo đuổi “chủ nghĩa tự do”. Công cụ được sử dụng nhiều là tung các gói hỗ trợ của nhà nước để giải cứu các ngân hàng hoặc tập đoàn kinh tế trước nguy cơ sụp đổ, gia tăng đầu tư công để “kích cầu” hoặc xử lý các nan giải xã hội cũng như sử dụng linh hoạt hơn các chính sách tài khóa. Điều này lại dẫn đến hệ quả nợ công của chính phủ tăng cao, đồng thời cũng thấy được vai trò quan trọng của nhà nước trong giải quyết khủng hoảng mà không hoàn toàn phó mặc cho thị trường tự do.

Sự buông lỏng quản lý nhà nước và những sai lầm trong chính sách kinh tế của nhà nước là nguyên nhân sâu xa hơn của cuộc khủng hoảng tài chính. KTTT Mỹ dựa chủ yếu trên sở hữu tư nhân, lợi nhuận là động cơ mạnh mẽ thúc đẩy các DN năng động, nhưng cũng là nguyên nhân thúc đẩy các DN đầu cơ, thậm chí sẵn sàng vi phạm pháp luật, vi phạm các chuẩn mực đạo đức xã hội, phá vỡ những cân đối duy trì sự phát triển ổn định của nền kinh tế. Nền KTTT phát triển đến một quy mô mà các tập đoàn tư bản lũng đoạn nền kinh tế cũng không thể trù liệu được những hệ quả xảy ra trong tương lai. Sự xuất hiện các định chế trung gian đánh giá sức khỏe tài chính thiếu khách quan để lại những lỗ hổng lớn về vai trò quản lý nhà nước trong các thể chế thị trường tự do.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 184 trang tài liệu này.

Cuộc khủng hoảng đã khiến các nước điều chỉnh chính sách kinh tế theo hướng gia tăng vai trò quản lý của nhà nước đối với nền kinh tế. Chính sách kinh tế của các chính phủ cân bằng hơn giữa phân bổ nguồn lực của thị trường và điều tiết của nhà nước; sự can thiệp, điều tiết kinh tế của nhà nước gia tăng; sự giám sát của nhà nước đối với các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, nhất là đối với hệ thống tài chính, ngân hàng, thị trường chứng khoán chặt chẽ hơn. Thất bại của thị


Đường lối phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng Cộng sản Việt Nam từ năm 2001 đến năm 2016 - 11

trường tự do và khủng hoảng nợ công cũng khiến vai trò của các tổ chức xã hội lớn hơn, không chỉ trong đứng ra tổ chức cung ứng các dịch vụ xã hội do nhà nước ủy quyền mà cả giám sát nhà nước và tham gia kiểm soát thị trường, trước hết là bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng, liên kết xã hội để giảm bớt các tổn thương do thị trường gây ra, tạo áp lực cần thiết để nhà nước thay đổi các chính sách có lợi hơn cho người lao động, khắc phục tình trạng thiên vị cho chủ tư bản.

Tác động của khủng hoảng đối với Việt Nam không chỉ đối với tăng trưởng, việc làm, mà khiến cho Đảng Cộng sản cầm quyền phải thận trọng hơn khi thúc đẩy tự do hóa, sử dụng thị trường, đồng thời gia tăng các xu hướng đề cao can thiệp của nhà nước. Các “nhóm trục lợi”, nhất là trong khu vực DNNN, cũng lợi dụng trào lưu chống tự do hóa để đề cao vai trò của mình khi can thiệp vào thị trường, gia tăng quyền lợi, cản trở quá trình cổ phần hóa, gây nên nhiều tiêu cực, tham nhũng, trì trệ trong khu vực này. Cuộc khủng hoảng cũng giúp cho Đảng đánh giá đúng đắn, đầy đủ hơn vai trò của nhà nước trong nền KTTT, nhất là sử dụng các công cụ can thiệp cũng như chú trọng an sinh xã hội, phát triển con người nhằm giữ vững định hướng XHCN.

3.1.1.3. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (4.0) và nền kinh tế số

Bước vào thập niên thứ hai của thế kỷ XXI, khoa học và công nghệ phát triển vượt bậc, dựa trên khả năng kết nối internet, dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo, người máy thế hệ mới, năng lượng mới, vật liệu thông minh... Giới nghiên cứu gọi đây là Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (4.0) hay nền kinh tế số, bắt đầu được khởi động ở Tây Âu, Mỹ, Nhật Bản, nhưng Việt Nam biết đến muộn hơn, dự báo không theo kịp với đà chuyển biến nhanh chóng của đổi mới sáng tạo.

Nền kinh tế số là một nền kinh tế dựa trên các công nghệ kỹ thuật số: hạ tầng số, tài nguyên số, dịch vụ số, thị trường số, an ninh và an toàn số. Kinh tế số bao gồm tất cả các lĩnh vực và nền kinh tế (công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ; sản xuất, phân phối, lưu thông hàng hóa, giao thông vận tải, logistic, tài chính ngân hàng, …) mà công nghệ số được áp dụng. Công nghệ số thúc đẩy nhiều ngành kinh doanh cải tiến mô hình phát triển, tạo ra nhiều ngành công nghiệp mới và xóa mờ đường biên giới địa lý. Hầu hết các nền kinh tế phát triển trên thế giới có một chiến lược phát triển công nghệ số, tập trung vào việc nghiên cứu để có thể áp dụng công nghệ mới vào việc tăng trưởng kinh tế. Nền kinh tế số hóa gắn chặt với tự động hóa


và trí tuệ nhân tạo, tham gia vào mọi mặt đời sống của con người như dịch vụ vận chuyển, du lịch, khách sạn... Chỉ trong gần một thập niên, nền kinh tế số đã tạo ra các tập đoàn tư bản kỹ thuật số khổng lồ với quy mô phát triển bằng các tập đoàn tư bản công nghiệp hàng trăm năm như Google, Facebook, Amazon.

Trong nền kinh tế số cấc ngành thâm dụng lao động giảm thiểu, thay vào đó là những ngành đòi hỏi trình độ, kỹ năng, còn gọi là lao động kỹ thuật số, hình thành những tiêu chuẩn mới của thị trường lao động. Chúng đặt ra những yêu cầu rất cao về chất lượng nguồn nhân lực, đổi mới khoa học công nghệ, đòi hỏi Việt Nam phải có những giải pháp mới cho phát triển thị trường lao động. Một trong những biện pháp tích cực nhất là phát triển thị trường lao động gắn với thị trường khoa học công nghệ; đẩy mạnh liên kết giữa khoa học công nghệ với sản xuất kinh doanh; đẩy mạnh đổi mới khoa học công nghệ khu vực KTTN; triển khai ứng dụng mạnh mẽ các công nghệ mới; thúc đẩy hợp tác quốc tế trong nghiên cứu khoa học, công nghệ; ưu tiên tài trợ cho các công trình khoa học, công nghệ xuất sắc.

Nền kinh tế số cũng thay đổi nhiều quan niệm truyền thống về hàng hóa, đó là sự gia tăng của vai trò của quyền sở hữu trí tuệ. Phải định hình các định chế trung gian có chức năng định giá tài sản hình thành từ quyền sở hữu trí tuệ để làm cơ sở cho các hoạt động kinh tế (vay vốn ngân hàng, góp vốn sản xuất, kinh doanh). Cách mạng công nghiệp 4.0 cũng đặt ra yêu cầu cần phải tinh gọn bộ máy quản lý nhà nước do sự phổ biến ngày càng mạnh mẽ của trí tuệ nhân tạo, công nghệ thông tin và internet.

Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (4.0), nền kinh tế số làm thay đổi các quan niệm về thị trường và KTTT, tài sản và quyền tài sản, chủ quyền và an ninh quốc gia trên không gian mạng. Đó là hình thành và phát triển nền kinh tế số với các cấu phần của thị trường số khác hẳn các thị trường thông thường gắn với phát triển mạnh mẽ thương mại điện tử, chính phủ điện tử, đô thị thông minh...; hình thành những tài sản vô hình gắn với quyền tài sản trí tuệ; hình thành chủ quyền quốc gia trên không gian mạng và bảo vệ an ninh mạng, ngăn ngừa các hoạt động phá hoại nền kinh tế số, lừa đảo, đánh cắp tài nguyên số cũng như lợi dụng mạng xã hội để thúc đẩy “diễn biến hòa bình”.


3.1.1.4. Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn

Trỗi dậy của Trung Quốc khiến cho mức độ cạnh tranh giữa Trung Quốc với Mỹ và các cường quốc khác trở nên gay gắt hơn. Sau khi cải cách, mở cửa (năm 1978), Trung Quốc duy trì tốc độ tăng trưởng trên 2 con số trong 3 thập niên, trở thành công xưởng sản xuất của thế giới, dự trữ ngoại hối lên tới hàng ngàn tỷ USD, sức mạnh kinh tế vì thế gia tăng nhanh chóng. Cuối năm 2010, quy mô của kinh tế Trung Quốc đã vượt qua Nhật Bản để trở thành nền kinh tế số 2 thế giới. Sự phát triển mạnh mẽ kinh tế của Trung Quốc khiến cho cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng quyết liệt hơn, nhất là quan hệ Trung – Mỹ. Hai nước vừa là bạn hàng thương mại lớn nhất, vừa cạnh tranh nhau trên các lĩnh vực như thương mại, khoa học, công nghệ. Mỹ xem Trung Quốc là nền kinh tế “phi thị trường” khi thao túng đồng nội tệ, hỗ trợ DNNN, trợ giá cho xuất khẩu, tạo rào cản cho doanh nghiệp đầu tư vào Trung Quốc, khiến cho thâm hụt thương mại giữa hai nước ngày càng lớn bất lợi cho Mỹ. Cạnh tranh kinh tế cũng đặt ra thách thức cho Việt Nam khi phải cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh để thu hút nguồn lực nước ngoài; cải cách thể chế kinh tế phù hợp thông lệ quốc tế để được công nhận là nền kinh tế thị trường, tránh các vụ kiện “bán phá giá” nếu bị quy kết là “phi thị trường”; đổi mới toàn diện, đồng bộ để phát huy lợi thế của toàn cầu hóa và hạn chế tối đa những tác động bất lợi.

Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn đã vượt ra khỏi lĩnh vực kinh tế vươn sang các lĩnh vực phi kinh tế. Biển Đông là khu vực không chỉ thuần túy tranh chấp lãnh thổ, biển đảo giữa các nước láng giềng mà còn chồng xếp, đan xen các lợi ích của cạnh tranh địa – chiến lược giữ các cường quốc. Trung Quốc sau một thập kỷ đầu thế kỷ XXI lợi dụng Mỹ sa lầy trong chiến tranh ở Trung Đông, chống khủng bố, đã vươn lên trở thành cường quốc kinh tế, ra sức thúc đẩy cạnh tranh địa chiến lược mà Biển Hoa Đông và Biển Đông là những địa bàn trực tiếp. Tháng 3- 2010, một viên chức ngọai giao Trung Quốc bắn tin cho Thứ trưởng ngoại giao Mỹ rằng Biển Đông là “lợi ích cốt lõi” [124]. Đáp lại, tháng 7-2010, tại Hà Nội, Ngoại trưởng Mỹ Hilary Clinton cho rằng vấn đề Biển Đông là lợi ích quan trọng trong tự do giao thương của Mỹ [125]. Trước hành động của Trung Quốc, Mỹ tuyên bố hình thành “Chiến lược tái cân bằng” lực lượng quân sự khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, dẫn dắt nhiều nước tham gia Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương


(CPTPP) không có Trung Quốc, tạo nên cạnh tranh chiến lược bằng cả giải pháp quân sự và kinh tế. Các nước lớn khác cũng can dự sâu hơn vào tình hình Biển Đông, như Nhật với hành động trợ giúp nâng cao năng lực hàng hải cho các nước có tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc, Ấn Độ với chính sách Hướng Đông, Australia hợp tác chặt chẽ với Mỹ trong vấn đề kiềm chế Trung Quốc.

Điều đó thúc đẩy cục diện cạnh tranh địa - chiến lược khốc liệt tại Châu Á – Thái Bình Dương mà Biển Đông trở thành địa bàn cọ xát giữa các cường quốc với nhiều lớp quan hệ đan xen, chồng xếp: Tranh giành lãnh thổ, biển đảo giữa các nước láng giềng; An ninh khu vực (trọng tâm là an ninh, an toàn, tự do hàng hải) và Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn. Cạnh tranh gay gắt hơn về tính chất, sâu rộng hơn về quy mô, phức tạp hơn về đối tượng tham, đa dạng hơn hình thức tiến hành. Xây dựng nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam chịu tác động rất lớn của tình hình nêu trên khi phải xử lý mối quan hệ lợi ích cạnh tranh chiến lược giữa các cường quốc, giữa giữ vững độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế, giữa bảo đảm quốc phòng, an ninh với phát triển kinh tế.

3.1.2. Bối cảnh trong nước

3.1.2.1. Thế và lực của Việt Nam sau 25 năm đổi mới

Trong 25 năm đổi mới, nền kinh tế đã có sự tăng trưởng liên tục và đạt tốc độ cao, mặc dù đây là khoảng thời gian kinh tế thế giới có các cuộc suy thoái và khủng hoảng diễn ra hết sức trầm trọng. Việt Nam luôn duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao “trong giai đoạn 2001-2010, đạt tốc độ bình quân 7,26%/năm” [37; tr.20]. Quy mô của nền kinh tế tăng lên đáng kể: “Năm 2010, GDP theo giá thực tế tính bằng USD đạt 101,6 tỷ USD, gấp 3,26 lần năm 2000 (31,2 tỷ USD)” [37, tr.51]. GDP bình quân đầu người tăng, đưa Việt Nam ra khỏi các nước kém phát triển, bước vào nhóm các nước đang phát triển ở trình độ trung bình: Từ năm 2009, GDP bình quân đầu người của Việt Nam đã vượt ngưỡng 1000 USD, bắt đầu bước vào nhóm các nước có thu nhập trung bình. Năm 2010, GDP bình quân đầu người đạt 1.168 USD. [37, tr.151].

Năng lực sản xuất tăng lên đáng kể, một số sản phẩm chủ lực của nền kinh tế đã hình thành. Trong sản xuất công nghiệp, xây dựng có bước phát triển khá, một số ngành công nghệ mới, công nghệ cao được hình thành: “Tăng trưởng công nghiệp bình quân 10 năm (2001-2010) đạt 9%...năm 2008, giá trị xuất khẩu của ngành công


nghiệp chiếm trên 72% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước” [14, tr.21]. Nông nghiệp phát triển với tốc độ khá cao và ổn định theo hướng sản xuất hàng hóa: “Giá trị xuất khẩu nông sản tăng xấp xỉ 2,4 lần trong giai đoạn 2001-2008, đạt 14,8 tỷ USD vào năm 2008” [14, tr.22]. Dịch vụ có bước phát triển về quy mô, ngành nghề và thị trường với sự tham gia của các DN thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. “Khu vực dịch vụ đã tạo ra khoảng 32,8% chỗ làm việc trong nền kinh tế” [14, tr.23].

Quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam diễn ra mạnh mẽ, vị thế quốc tế ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế. Trong hoạt động đối ngoại, Việt Nam đã tạo dựng được khuôn khổ hợp tác hữu nghị, lâu dài với các nước láng giềng, các nước trong khu vực. Trong quan hệ đa phương, Việt Nam ngày càng đóng góp có trách nhiệm đối với các vấn đề quốc tế, khu vực. Đặc biệt, Việt Nam được các thành viên của Liên hiệp quốc bầu vào vị trí ủy viên không thường trực Hội Đồng bảo an nhiệm kỳ 2008-2009 đã thể hiện sự đánh giá cao các hoạt động cũng như uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.

Đảng đã định hình được tư duy kinh tế về đường lối phát triển nền KTTT định hướng XHCN (cơ sở, đường lối phát triển nền KTTT định hướng XHCN). Đường lối phát triển kinh tế của Đảng ngày một rõ ràng, được bổ sung và phát triển. Nhà nước chuyển sang quản lý nền kinh tế bằng các hệ thống pháp luật, hạn chế mức thấp can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế bằng các quyết định mang tính hành chính. Bước đầu, các tổ chức chính trị - xã hội đã thực hiện tốt chức năng giám sát và phản biện xã hội, giám sát quá trình thực thi các chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước, từ đó góp phần hạn chế những tác động tiêu cực từ phía các cơ quan quản lý Nhà nước, bảo vệ quyền lợi của nhân dân trong nền KTTT định hướng XHCN.

Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt, niềm tin của nhân dân vào đường lối Đổi mới của Đảng nói chung và đường lối phát triển nền KTTT định hướng XHCN ngày một vững chắc. Chính sách khuyến khích và hỗ trợ mọi người dân, các thành phần kinh tế tích cực bổ vốn, công sức và trí tuệ tham gia sản xuất, kinh doanh đã không những đem lại thu nhập cho mọi tầng lớp dân cư mà còn góp phần vào sự phát triển mạnh mẽ của đất nước. Do đó, niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng trong việc phát triển nền KTTT định hướng XHCN được củng cố mạnh mẽ.


Sau 25 năm Đổi mới, thế và lực, sức mạnh tổng hợp của Việt Nam lớn hơn nhiều so với thời kỳ trước. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn đứng trước nhiều thách thức lớn, đan xen, tác động tổng hợp có thể kìm hãm sự phát triển kinh tế. Do đó, Đảng cần khơi thông mạnh mẽ các nguồn lực nhằm phát triển kinh tế bằng cách giảm dần tiến tới xoá bỏ phân biệt đối xử trong kinh doanh, chống hạn chế cạnh tranh, giảm thiểu các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường, hạn chế kiểm soát độc quyền. Cải thiện nhanh môi trường đầu tư để thu hút đầu tư trong và ngoài nước…

3.1.2.2. Tác động của khủng hoảng kinh tế - tài chính thế giới

Cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính thế giới năm 2008 tác động sâu sắc đến nền kinh tế Việt Nam: Trong 5 năm 2007 - 2011, tăng trưởng GDP của nền kinh tế chỉ đạt trung bình 6,5%, không đạt chỉ tiêu kế hoạch 7,5-8% và thấp hơn mức trung bình 7,5% trong giai đoạn 5 năm trước đó [179]. Hậu quả của gói kích cầu hơn 8 tỷ USD mà Chính phủ tung ra giải cứu nền kinh tế dẫn đến lạm phát tăng cao ở Việt Nam, lên đến gần 22% vào năm 2008 [180], rồi sau đó có giảm, nhưng đều ở mức 2 con số trong những năm 2010 và 2011. Môi trường kinh doanh của Việt Nam chịu ảnh hưởng nghiêm trọng bởi bức tranh kinh tế này.

Môi trường đầu tư kém hấp dẫn khiến số lượng DN thành lập mới liên tục giảm trong những năm 2010 – 2012, điều chưa từng xảy ra trước đó, chưa kể số lượng DN thành lập mới làm ăn không có lãi còn nhiều. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu vào thị trường Mỹ giảm do nhu cầu tiêu dùng tại thị trường Mỹ trên đà “trượt dốc”, mặt khác cạnh tranh trong xuất khẩu vào thị trường Mỹ khốc liệt hơn do một số nhà xuất khẩu giảm giá hàng xuất khẩu để tiêu thụ lượng hàng hoá xuất khẩu bị tồn đọng. Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam cũng xuống thấp, từ hơn 70 tỷ đô la Mỹ năm 2008, xuống còn khoảng hơn 10 tỷ năm 2012.

Đối diện với khó khăn nêu trên, Chính phủ đã đề ra nhiều biện pháp tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Chính phủ đã ban hành Quyết định 131/2009/QĐ-TTg ngày 23-1-2009 về hỗ trợ lãi suất 4% cho các DN và cá nhân vay vốn ngắn hạn nhằm giảm chi phí vốn để đẩy mạnh sản xuất kinh doanh, dịch vụ. Không lâu sau đó, ngày 4-4-2009, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 443/QĐ-TTg về việc cho vay hỗ trợ lãi suất cho cá nhân, tổ chức vay vốn trung, dài hạn bằng đồng Việt Nam để đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, kết cấu hạ tầng tăng khả năng cạnh tranh sản phẩm, tạo việc làm. Nhà nước cũng thi

Xem tất cả 184 trang.

Ngày đăng: 20/03/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí