nhau.
Vì vậy, để một bài kiểm tra, đánh giá có độ tin cậy giáo viên cần:
Giảm các yếu tố ngẫu nhiên may rủi đến mức tối thiểu.
Diễn đạt đề bài một cách rõ ràng để mọi học sinh có thể hiểu như
Ra nhiều câu hỏi bao quát tới mức tối đa các vấn đề cần kiểm tra,
đánh giá, vừa có phần ghi nhớ, vừa có phần hiểu và vận dụng.
Giảm tới mức thấp nhất sự gian lận trong thi cử: coi thi nghiêm túc, giám sát chặt chẽ hoặc sử dụng đề mở…
Chuẩn bị tốt đáp án, thang điểm cho nhiều người chấm hoặc một người chấm trong nhiều lần cho kết quả tương đương.
b. Đảm bảo tính giá trị.
Tính giá trị của kiểm tra, đánh giá thể hiện ở việc giáo viên đánh giá đúng trình độ học tập của học sinh. Nó phụ thuộc vào nội dung, mục đích, phương pháp kiểm tra. Nếu câu hỏi trong đề kiểm tra chỉ yêu cầu
học sinh
ở mức độ
biết thì bài kiểm tra chỉ
đo được trình độ
nhớ
máy
móc, học thuộc lòng của học sinh mà không đánh giá được trình độ nhận thức (hiểu) và vận dụng. Vì vậy, để bài kiểm tra có tính giá trị, giáo viên phải chú ý tới sự phù hợp của câu hỏi với việc xác định mức độ đạt được các mục tiêu trong học tập bộ môn. Đề ra phải có khả năng giúp giáo viên
đo được chính xác khả dụng.
năng của học sinh
ở ba mức độ
biết, hiểu, vận
c. Một số yêu cầu khác.
Ngoài đảm bảo độ tin cậy và tính giá trị ra thì quá trình kiểm tra, đánh giá còn phải đảm bảo một số yêu cầu khác như:
Cần phối hợp nhiều loại hình, phương pháp kiểm tra, đánh giá và đảm bảo tính thường xuyên, toàn diện của kiểm tra, đánh giá.
Kết hợp kiểm tra đánh giá của giáo viên và tự kiểm tra đánh giá của
học sinh. Đây là một yếu tố quan trọng trong phương pháp dạy học tích cực hiện nay. Nếu như trước đây giáo viên giữ độc quyền kiểm tra, đánh giá học sinh thì giờ đây giáo viên phải hướng dẫn học sinh phát triển kỹ năng tự đánh giá để tự điều chỉnh cách học của mình. Để làm được điều đó, giáo viên cần tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh được tham gia đánh giá lẫn nhau.
Phương pháp kiểm tra, đánh giá càng đơn giản, ít tốn thời gian, sức lực, chi phí, phù hợp với điền kiện cụ thể thì càng tốt.
Trong các yêu cầu trên độ
tin cậy và tính giá trị
là hai yêu cầu
quan trọng nhất của bài kiểm tra. Hai yêu cầu này có mối quan hệ chặt
chẽ với nhau. Một bài kiểm tra nếu không đánh giá đúng thực trạng,
trình độ
của người học mà chỉ
đo được những chỉ số
phụ
không tiêu
biểu thì có thể đáng tin cậy song không không có giá trị. Tính giá trị liên
quan đến mục tiêu của kết quả
đo được còn độ
tin cậy lại liên quan
đến sự vững chắc và khách quan của kết quả đó. Vì vậy, nếu một bài kiểm tra không có độ tin cậy thì sẽ không có tính giá trị.
Trên đây là những vấn đề
lý luận cần nắm vững về
việc kiểm
tra, đánh giá kết quả học tập lịch sử của học sinh ở trường phổ thông
và cần quán triệt việc thực hiện. Nếu vận dụng tốt những lý luận trên
vào thực tiễn dạy học bộ
môn sẽ
góp phần nâng cao chất lượng dạy
học lịch sử ở
trường phổ
thông. Song thực trạng vấn đề
này như
thế
nào, kết quả điều tra thực tiễn của chúng tôi sẽ làm sáng tỏ.
1.1.2. Thực trạng vấn đề
kiểm tra đánh giá kết quả
học tập
Lịch sử của học sinh ở trường trung hoc phổ thông hiện nay.
Để nắm tình hình thực tiễn việc kiểm tra, đánh giá kết quả học tập lịch sử trong dạy học bộ môn, chúng tôi tiến hành điều tra một số trường của tỉnh Bắc Giang, Nam Định, Thái Bình, Ninh Bình tại một số trường
THPT như THPT Ngô Sĩ Liên, THPT Yên Dũng I, THPT Việt Yên I,
THPT Việt yên II (Bắc Giang); THPT Nam Trực (Nam Định); THPT Nguyễn Du, THPT Nguyễn Trãi (Thái Bình), Đinh Tiền Hoàng (Ninh Bình). Kết quả điều tra thu được như sau:
1.1.2.1. Đối với giáo viên.
* Về quan niệm:
Để nắm bắt được quan niệm của giáo viên về vai trò, ý nghĩa của việc kiểm tra, đánh giá chúng tôi đã thực hiện phát phiếu điều tra cho 30 giáo viên, kết quả thu được như sau:
Quan niệm về kiểm tra, đánh giá | Số giáo viên | Phần trăm | |
1 | Rất quan trọng | 25 | 75% |
2 | Quan trọng | 5 | 25% |
3 | Bình thường | 0 | 0% |
4 | Không quan trọng | 0 | 0% |
Có thể bạn quan tâm!
- Đổi mới việc kiểm tra, đánh giá kết quả học tập lịch sử của học sinh trong dạy học Lịch sử Việt Nam - Nguyễn Thị Quỳnh Trang - 2
- Vai Trò, Ý Nghĩa Của Việc Kiểm Tra, Đánh Giá Kết Quả Học Tập Lịch Sử Của Học Sinh.
- Nội Dung Kiểm Tra, Đánh Giá Tri Thức Học Sinh Trong Dạy Học Lịch Sử.
- Phương Hướng Đổi Mới Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tập Của Học Sinh Trong Dạy Học Lịch Sử .
- Yêu Cầu Khi Xác Định Và Sử Dụng Một Số Biện Pháp Đổi Mới
- Kết Hợp Nhuần Nhuyễn, Đa Dạng Các Hình Thức Kiểm Tra Đánh
Xem toàn bộ 133 trang tài liệu này.
Qua điều tra về quan niệm của giáo viên, chúng tôi thấy hầu hết
các giáo viên đều cho rằng kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học
sinh trong dạy học nói chung và dạy học lịch sử nói riêng là rất quan
trọng. Nó là một khâu không thể thiếu trong quá trình dạy học. Việc dạy học chỉ mang lại hiệu quả tối ưu khi giáo viên và học sinh tiến hành kiểm tra, đánh giá và tự kiểm tra, đánh giá thường xuyên.
Tuy nhiên thực tế vẫn có nhiều giáo viên quan niệm kiểm tra chỉ để
lấy điểm hay mắc bệnh thành tích…điều này có tới việc đánh giá kết quả học tập của học sinh.
* Về nội dung:
ảnh hưởng không nhỏ
Về mức độ trong nội dung kiểm tra, đánh giá qua điều tra chúng tôi thu được kết quả như sau:
Nội dung câu hỏi kiểm | Số giáo viên | Phần trăm |
tra | |||
1 | Manh tính học thuộc | 6 | 20% |
2 | Phát triển tư duy | 0 | 0% |
3 | Cả hai loại trên | 24 | 80% |
Ở các trường điểm như THPT Đinh Tiên Hoàng, THPT Ngô Sĩ
Liên, THPT Yên Dũng I việc kiểm tra, đánh giá tri thức của học sinh trong
dạy học lịch sử được giáo viên hết sức quan tâm. Giáo viên khi ra đề
kiểm tra cũng yêu cầu học sinh ở cả ba mức độ nhận thức biết, hiểu và vận dụng. Giáo viên không chỉ sử dụng các câu hỏi yêu cầu học sinh ghi nhớ kiến thức mà còn đòi hỏi tư duy độc lập và tính sáng tạo của các em. Số lượng giáo viên ra đề với mức độ nội dung như trên chiếm 80%.
Bên cạnh nội dung kiểm tra về kiến thức, theo điều tra của chúng tôi các giáo viên còn sử dụng câu hỏi để đánh giá thái độ của học sinh. Số lượng câu hỏi đó chiếm khoảng từ 10 30% số điểm.
Ở một số trường phổ thông vùng nông thôn, nội dung kiểm tra đánh giá chỉ giới hạn ở việc nhớ kiến thức của học sinh và không quan tâm tới việc hiểu kiến thức.
Ngoài ra, nhiều giáo viên coi lịch sử là môn phụ, môn học thuộc
lòng, môn gỡ điểm cho nên khi tiến hành kiểm tra giáo viên giới hạn kiến thức ôn tập cho học sinh. Thậm chí trong khâu coi và chấm kiểm tra giáo viên còn tỏ ra dễ dãi, tình trạng quay cóp, thiếu trung thực còn diễn ra. Ở khâu chấm bài nhiều giáo viên còn ngại chấm nên không có thang điểm rõ ràng, chỉ chấm nội dung kiến thức mà không chấm lối hành văn, lỗi chính tả, cách trình bày. Điều này ảnh hưởng tới độ tin cậy và tính giá trị của bài kiểm tra dẫn đến đánh giá chưa chính xác trình độ của học sinh.
Đối với kiểm tra, đánh giá hoạt động nhận thức vào cuối giờ học còn chưa được thực hiện một cách có hiệu quả nhất. Nhiều giáo viên còn
lúng túng khi kiểm tra học sinh dẫn đến giáo viên không đánh giá được việc lĩnh hội kiến thức của học sinh qua bài học trên lớp ra sao.
Đối với kiểm tra viết (15 phút, 1 tiết) giáo viên đưa ra câu hỏi
đã có yêu cầu học sinh phân tích, giải thích các sự kiện, hiện tượng
lịch sử. Song số lượng câu hỏi này chưa nhiều chỉ chiếm từ 10 20%
số điểm của bài kiểm tra mà chủ yếu vẫn là câu hỏi yêu cầu học
sinh trình bày sự kiện.
* Về hình thức, phương pháp kiểm tra.
Về phương pháp kiểm tra, đánh giá qua kết quả điều tra thực tế ở
trường phổ thông chúng tôi thấy kết quả như sau:
Phương pháp kiểm tra, đánh giá | Số giáo viên | Phần trăm | |
1 | Tự luận | 12 | 40% |
2 | Trắc nghiệm khách quan | 4 | 13,33% |
3 | Kết hợp 2 phương pháp trên | 14 | 46,67% |
Qua bảng thống kê cho thấy hiện nay phương pháp kiểm tra,
đánh giá kết hợp trắc nghiệm khách quan và tự luận bước đầu được
sử dụng
ở các trường phổ
thông. Tuy nhiên, phương pháp kiểm tra
bằng câu hỏi tự
luận vẫn còn rất phổ
biến. Cũng có nhiều giáo viên
thừa nhận rằng việc kết hợp sử dụng phương pháp trắc nghiệm khách
quan và phương pháp tự luận là rất thiết thực không những đem lại
hiệu quả cao mà còn gây được hứng thú cho học sinh.
Về hình thức kiểm tra, đánh giá thì đa số các giáo viên vẫn sử dụng hình thức kiểm tra miệng và kiểm tra viết (75%). Một số ít còn lại (25%)
có kết hợp cả hành.
hình thức kiểm tra bằng bài tập về
nhà và bài tập thực
1.1.2.2. Đối với học sinh.
* Về Quan niệm, nhận thức:
Để điều tra quan niệm của học sinh về kiểm tra, đánh giá trong học tập lịch sử chúng tôi đã phát phiếu điều tra cho 200 học sinh và thu được kết quả như sau:
Quan niệm về kiểm tra, đánh giá | Số học sinh | Phần trăm | |
1 | Rất cần thiết | 54 | 27% |
2 | Cần thiết | 132 | 66% |
3 | Không cần thiết | 14 | 7% |
Học sinh ở cấp trung học phổ thông có áp lực lớn là phải vượt qua kỳ thi tốt nghiệp và đại học trong đó thi đại học chỉ có 3 môn. Đối với các học sinh thi khối A, B, D thì đa phần các em chỉ coi môn sử là môn phụ, phải học thuộc lòng rất nhiều và khó nhớ. Học sinh cũng không thấy được vai trò của môn lịch sử trong việc giáo dục cho nên các em rất coi nhẹ môn học và học một cách đối phó.
Với một số học sinh yêu thích bộ môn lịch sử và có tinh thần học tập thì các em chịu khó nghiên cứu sách giáo khoa, đọc các tài liệu tham
khảo có liên quan. Trên cơ sở
đó học sinh tái hiện kiến thức để
hoàn
thành bài tập về nhà do giáo viên đưa ra hoặc tập trả lời các câu hỏi trong sách giáo khoa. Đối với các em chịu khó ôn tập thì khi kiểm tra, đánh giá kết quả đạt được điểm cao.
Do nội dung kiểm tra, đánh giá phần lớn mang tính học thuộc và
quá trình chuẩn bị cho kiểm tra của các em chưa tốt, đồng thời một
phần do giáo viên không quản lý tốt nên trong quá trình kiểm tra còn có tình trạng gian lận, thiếu trung thực. Qua điều tra học sinh chúng tôi thu được kết quả như sau:
Mức độ trung thực | Số học sinh | Phần trăm | |
1 | Rất nghiêm túc làm bài | 66 | 33% |
2 | Thỉnh thoảng xem tài liệu | 112 | 56% |
Xem tài liệu nhiều | 22 | 11% |
Như vậy là tỷ lệ quay cóp còn khá nhiều, điều này đã ảnh hưởng tới việc đánh giá một cách chính xác kết quả học tập của học sinh.
* Về phương pháp:
Qua điều tra về hứng thú của học sinh với các phương pháp kiểm tra, đánh giá chúng tôi thu được kết quả như sau:
Phương pháp kiểm tra | Rất thích | Bình thường | Không thích | ||||
Số học sinh | % | Số học sinh | % | Số học sinh | % | ||
1 | Tự luận | 0 | 0% | 75 | 37,5% | 125 | 62,5% |
2 | Trắc nghiệm | 108 | 54% | 92 | 46% | 0 | 0% |
3 | Kết hợp hai loại trên | 86 | 43% | 97 | 48,5% | 17 | 8,5% |
Qua bảng điều tra có thể thấy, hiện nay phương pháp kiểm tra
bằng câu hỏi tự luận ít được học sinh ủng hộ, đa phần học sinh muốn
thầy cô áp dụng phương pháp kiểm tra bằng trắc nghiệm khách quan hay kết hợp cả hai phương pháp tự luận và trắc nghiệm khách quan.
Tóm lại, qua điều tra thực tế chúng tôi nhận thấy hiện nay khâu
kiểm tra, đánh giá đã phần nào được các giáo viên và học sinh nhận thức một cách đúng đắn. Một số trường và một số giáo viên cũng đã có những biện pháp để đổi mới khâu kiểm tra, đánh giá như kết hợp phương pháp
kiểm tra bằng câu hỏi trắc nghiệm khách quan và câu hỏi tự luận. Tuy
nhiên những biện pháp đưa ra chưa thật đồng bộ và triệt để nên kết quả còn hạn chế. Mặt khác do bệnh thành tích nên không ít cán bộ quản lý ở
các trường phổ
thông khống chế
chỉ
tiêu điểm cho giáo viên tỏng việc
kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh. Điều này càng làm cho học sinh coi thường bộ môn.
1.1.2.3. Nguyên nhân của những hạn chế về kiểm tra, đánh giá ở
trường trung học phổ thông.
Thực trạng về việc kiểm tra, đánh giá kết quả học tập lịch sử của
học sinh ở trường phổ thông nêu trên là do rất nhiều nguyên nhân khác
nhau. Theo chúng tôi có một số nguyên nhân chủ yếu sau:
Trước hết, do quan niệm sai lệch về bộ môn lịch sử của các cấp quản lý, giáo viên, học sinh và xã hội, coi lịch sử là môn phụ không cần
chú ý. Từ
việc coi thường bộ
môn dẫn đến coi thường việc kiểm tra,
đánh giá và kiểm tra, đánh giá chạy theo thành tích. Bên cạnh đó, các nhà quản lý còn dùng chỉ
tiêu để
ép giáo viên
về thành tích nên giáo viên khó có thể
tuân thủ
các yêu cầu về
kiểm
tra, đánh giá.
Mặt khác do đặc điểm của việc dạy học lịch sử ở
trường phổ
thông, một giáo viên phải dạy nhiều lớp do đó trong thời gian ngắn giáo viên phải hoàn thành kiểm tra, đánh giá một lượng học sinh lớn. Vì vậy,
giáo viên không thể
đầu tư
đánh giá đầy đủ, chính xác. Việc chấm bài
kiểm tra khó có thể thể thực hiện theo đúng nguyên tắc, quy trình.
Hơn nữa, hiện nay do điều kiện cuộc sống có nhiều khó khăn nhiều giáo viên khó có thể còn thời gian để tâm huyết với nghề cho nên không có trách nhiệm cao trong việc kiểm tra, đánh giá học sinh.
Tóm lại, thực trạng kiểm tra, đánh giá ở nhà trường phổ thông đang đặt ra những yêu cầu đòi hỏi các cấp quản lý giáo dục, các giáo viên phải tiến hành các biện pháp để nâng cao chất lượng của kiểm tra, đánh giá. Và nâng cao chất lượng của kiểm tra, đánh giá cũng chính là nhằm nâng cao chất lượng dạy học lịch sử ở nhà trường phổ thông.