3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu như vậy, luận văn đặt ra nhiệm vụ nghiên cứu như sau:
- Làm rõ bản chất pháp lý của điều kiện bảo hộ sáng chế, vai trò của nó trong hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với sáng chế cũng như ý nghĩa của nó đối với sự phát triển khoa học kỹ thuật ở nước ta.
- Đánh giá thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật Việt Nam về điều kiện bảo hộ sáng chế và sử dụng sáng chế của Việt Nam, đồng thời có sự so sánh tương quan thực tiễn bảo hộ sáng chế với các đối tượng sở hữu công nghiệp khác.
- Dựa trên sự phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn, tác giả tìm ra nguyên nhân và đề xuất phương hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam về điều kiện bảo hộ sáng chế, từ đó góp phần vào việc gia tăng các đơn đăng ký bảo hộ độc quyền sáng chế ở Việt Nam
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong luận văn này, chúng tôi đã vận dụng quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng và lý luận về nhận thức của triết học Mác - Lênin; Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật. Đồng thời, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học là phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh, phương pháp lịch sử, phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn khi nghiên cứu đề tài này.
5. Kết cấu của Đề tài
Chương 1. Lý luận chung về sáng chế và điều kiện bảo hộ sáng chế
Chương 2. Nội dung quy định của pháp luật hiện hành về điều kiện bảo hộ đối với sáng chế
Có thể bạn quan tâm!
- Điều kiện bảo hộ sáng chế theo pháp luật Việt Nam - 1
- Khái Quát Chung Về Điều Kiện Bảo Hộ Quyền Sở Hữu Công Nghiệp Đối Với Sáng Chế
- Vai Trò Của Điều Kiện Bảo Hộ Quyền Sở Hữu Công Nghiệp Đối Với Sáng Chế
- Phạm Vi Các Đối Tượng Được Bảo Hộ Sáng Chế
Xem toàn bộ 99 trang tài liệu này.
Chương 3. Thực tiễn áp dụng pháp luật về điều kiện bảo hộ sáng chế và một số giải pháp hoàn thiện
Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ SÁNG CHẾ VÀ ĐIỀU KIỆN BẢO HỘ SÁNG CHẾ
1.1. Khát quát chung về sáng chế
1.1.1. Khái niệm
Sáng chế là một khái niệm dùng để chỉ những giải pháp kỹ thuật mới do con người sáng tạo ra nhằm đáp ứng những nhu cầu cần thiết trong hoạt động lao động sản xuất của con người. Trong đó, giải pháp kỹ thuật được hiểu là một phương thức để giải quyết một vấn đề cụ thể trong lĩnh vực kỹ thuật hoặc có thể hiểu giải pháp kỹ thuật là cơ cấu, phương pháp hay chất mới hay sử dụng cơ cấu, phương pháp cũ theo chức năng mới [30, tr. 116], nó được thể hiện dưới dạng sản phẩm hoặc quy trình giải quyết một vấn đề được xác định bằng việc ứng dụng các quy luật tự nhiên [3, Điều 4]. Nói một cách khác, giải pháp kỹ thuật hướng đến mục tiêu làm chủ thiên nhiên của con người. Một đối tượng sẽ được coi là giải pháp kỹ thuật nếu nó tạo điều kiện cho con người khai thác thế giới tự nhiên và thông qua đó thỏa mãn những nhu cầu vật chất và tinh thần của mình. Quá trình này có thể được diễn ra bằng cách tận dụng các nguồn lực hoặc các quy luật của tự nhiên như bằng cách tác động trực tiếp vào thiên nhiên.
Cùng với những tiến bộ và sự phát triển không ngừng của khoa học kỹ thuật thế giới, khái niệm sáng chế cũng đang được liên tục mở rộng. Sáng chế không đơn giản chỉ bao hàm các công cụ, máy móc hữu hình mà còn là cả các quy trình nhằm giải quyết một vấn đề xác định bằng việc ứng dụng các quy luật của tự nhiên. Thậm chí, ở một số quốc gia, khái niệm sáng chế đã được mở rộng ra đến mức vượt ra khỏi quan điểm truyền thống về “bản chất kỹ
thuật” của sáng chế vốn đã được biết đến rộng rãi ở các nước. Ví dụ, ở Hoa Kỳ, phương pháp kinh doanh được coi là sáng chế và được bảo hộ độc quyền. Theo kết quả tổng kết của cơ quan sáng chế Hoa Kỳ (USPTO), số các giải pháp kinh doanh được cấp bằng sáng chế tại Hoa Kỳ năm 1996 là 700. Đến năm 2000, con số này đã lên đến 2600. Kể từ ngày 1/8/2000, Hàn Quốc cũng đã chính thức thừa nhận phương pháp kinh doanh như là một đối tượng có khả năng được bảo hộ sáng chế…
Dưới góc độ pháp luật quốc tế, sáng chế với tên tiếng Anh là Invention, theo tài liệu do WIPO phát hành được định nghĩa: “Sáng chế là sản phẩm mới hoặc quy trình nhằm giải quyết một vấn đề kỹ thuật” [25].
Dưới góc độ khoa học pháp lý, Từ điển Luật học có định nghĩa: “Sáng chế được hiểu là giải pháp kỹ thuật mới so với trình độ kỹ thuật trên thế giới, có tính sáng tạo và có khả năng áp dụng trong các lĩnh vực kinh tế
- xã hội” [32, tr. 665]. Ngoài ra, theo tác giả Vũ Cao Đàm: “Sáng chế là giải pháp kỹ thuật mang tính mới về nguyên lý kỹ thuật, sáng tạo và áp dụng được” [34].
Dưới góc độ pháp luật thực định
Tại Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 định nghĩa: “Sáng chế là giải pháp kỹ thuật dưới dạng sản phẩm hoặc quy trình nhằm giải quyết một vấn đề xác định bằng việc ứng dụng các quy luật tự nhiên” [32, Điều 4, Khoản 12]. Quy định này giống như các văn bản pháp luật trước đó quy định về khái niệm sáng chế thì sáng chế phải là một giải pháp kỹ thuật, tức là phải góp phần giải quyết một số vấn đề kỹ thuật cụ thể. Tuy nhiên, khái niệm trong Luật SHTT năm 2005 đã bổ sung thêm dạng thức thể hiện của sáng chế đó là sản phẩm hoặc quy trình và phải nhằm giải quyết một vấn đề xác định bằng việc ứng dụng các quy luật tự nhiên. Ví dụ: Việc tìm ra chất kháng sinh chưa phải là một sáng chế vì chất này có sẵn trong tự nhiên và không là giải pháp cho một vấn đề cụ thể.
Nhưng nếu dùng chất đó để tạo ra thuốc kháng sinh Penicilin thì việc làm này nhằm mục đích chữa bệnh, và loại thuốc này được coi là sáng chế.
Như vậy, dưới các góc độ, khía cạnh tiếp cận khác nhau, nhưng suy cho cùng sáng chế được tồn tại chủ yếu thông qua 02 dạng của giải pháp kỹ thuật là sản phẩm và quy trình, thông qua đó, chúng đã tạo điều kiện cho xã hội loài người trải qua những bước phát triển tột bậc, ngày càng văn minh và hiện đại. Có thể nói, sáng chế là đó sự thỏa thuận của xã hội đối với các nhà phát minh [35, tr. 131]. Theo đó, trong một thời hạn nhất định, “nhà phát minh” được độc quyền ngăn cấm người khác không được sao chép, sử dụng hoặc bán một sáng chế đã được cấp văn bằng bảo hộ. Đổi lại, “nhà phát minh” sẽ công bố các chi tiết của sáng chế cho công chúng biết. Hệ thống cấp bằng sáng chế là phần thưởng của xã hội dành cho những nỗ lực sáng tạo của nhà phát minh, đồng thời cũng là kênh quan trọng để cập nhật tri thức nhân loại từ những phát minh đó.
1.1.2. Đặc điểm sáng chế
Thứ nhất, sáng chế là giải pháp kỹ thuật phải giải quyết được một vấn đề cụ thể bằng việc áp dụng các quy luật tự nhiên.
Sáng chế là sản phẩm, quy trình công nghệ, do con người tạo ra, không phải là những gì (đã tồn tại trong thiên nhiên) được con người phát hiện ra và thuộc tính cơ bản của sáng chế là đặc tính kỹ thuật, bởi vì sáng chế là giải pháp kỹ thuật, tức là biện pháp kỹ thuật nhằm giải quyết một vấn đề và việc giải quyết vấn đề này được thể hiện bằng việc áp dụng quy luật tự nhiên. Quy luật tự nhiên là những quy luật khoa học của tự nhiên được khám phá thông qua thực nghiệm. Như vậy, những ý tưởng hoặc ý đồ chỉ nêu vấn đề mà không đưa ra cách giải quyết vấn đề không được bảo hộ là sáng chế; hoặc vấn đề được giải quyết không phải là vấn đề kỹ thuật hoặc không giải quyết được bằng cách thức kỹ thuật thì cũng không được coi là sáng chế.
Sáng chế không tồn tại trong lĩnh vực khoa học xã hội nhân văn. Tuy nhiên các nhà khoa học xã hội phải bàn tới sáng chế khi phân tích ý nghĩa kinh tế - xã hội, pháp lý của nó.
Thứ hai, sáng chế có thể tồn tại dưới dạng: sản phẩm hoặc quy trình.
Giải pháp kỹ thuật được hiểu là biện pháp để giải quyết một vấn đề mang đặc tính kỹ thuật, giải pháp kỹ thuật có thể là sản phẩm hoặc quy trình, trong đó:
Sáng chế là sản phẩm bao gồm: (i) Sản phẩm dưới dạng vật thể: Được thể hiện bằng một tập hợp các thông tin xác định một sản phẩm nhân tạo được đặc trưng bởi các dấu hiệu, chi tiết về kết cấu. Các dấu hiệu, chi tiết này liên kết với nhau để thực hiện một chức năng, công dụng nhất định nhằm đáp ứng một nhu cầu con người. Ví dụ: Dụng cụ, máy móc, thiết bị… (ii) Sản phẩm dạng chất thể: Được thể hiện bằng một tập hợp các thông tin xác định một sản phẩm nhân tạo được đặc trưng bởi các dấu hiệu, đặc điểm về sự hiện diện, tỷ lệ và trạng thái các phân tử tạo thành và có một chức năng nhất định. Ví dụ: Vật liệu, chất liệu, thực phẩm… (iii) Sản phẩm dạng vật liệu sinh học: Được thể hiện bằng tổng hợp các thông tin về một sản phẩm có chứa thông tin di truyền bị biến đổi dưới tác động của con người; có khả năng tự tái tạo lại. Ví dụ: Gen thực vật, gen động vật…
Sáng chế là quy trình được thể hiện bằng tập hợp các thông tin xác định cách thức tiến hành một quá trình, công việc được xác định bằng các đặc điểm về trình tự, điều kiện, thành phần tham gia, biện pháp, phương tiện thực hiện các thao tác nhằm đạt được một mục đích nhất định như: Quy trình công nghệ, phương pháp chuẩn đoán, dự đoán, kiểm tra…
Theo bảng phân loại sáng chế Quốc tế (IPC) sáng chế còn có thể chia thành 8 lĩnh vực: (i) Dụng cụ thiết yếu cho con người; (ii) Quy trình công nghệ, giao thông vận tải; (iii) Hóa học, luyện kim; (iv) Dệt may, giấy; (v)
Xây dựng; (vi) Máy cơ khí, chiếu sáng, nhiệt, vũ khí, chất nổ; (vii) Cơ học;
(viii) Đồ điện.
Thứ ba, sáng chế có khả năng áp dụng trực tiếp vào sản xuất và đời sống, nó có giá trị thương mại và mang lại lợi ích kinh tế cho chính chủ sở hữu của sáng chế.
Trên cơ sở sự sáng tạo, sức lao động bỏ ra, sáng chế với những giải pháp kỹ thuật được hình thành và bảo hộ được áp dụng trực tiếp vào sản xuất và đời sống thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế, đồng thời nó cũng đem lại giá trị kinh tế cho chính chủ sở hữu sáng chế, bởi họ chính là “nhà phát minh” ra sáng chế.
1.2. Phân biệt sáng chế với một số đối tượng khác
1.2.1. Phân biệt sáng chế với phát minh
Xét dưới góc độ ngôn ngữ, phát minh được hiểu một cách đơn thuần là việc tìm ra cái có cống hiến lớn cho khoa học và loài người [33, tr.768]. Ở cấp độ cao hơn, theo từ điển Bách khoa Việt Nam, phát minh được hiểu là sự phát hiện một vật, một hiện tượng hoặc một quy luật tồn tại khách quan của tự nhiên mà con người chưa từng biết tới. Phát minh làm thay đổi, nâng cao trình độ nhận thức của con người đối với tự nhiên và tạo cơ sở để con người lợi dụng, chế ngự tự nhiên. Phát minh khoa học là yếu tố quyết định đối với tiến bộ khoa học kỹ thuật. Phát minh thường gắn với những nghiên cứu khoa học cơ bản trong khoa học lý thuyết và khoa học ứng dụng. Phát minh phản ánh các mối quan hệ hiện thực khách quan cơ bản và tính chất của các hiện tượng trong thế giới hiện thực.
Dưới góc độ khoa học pháp lý, theo tác giả Vũ Cao Đàm, phát minh được hiểu là sự khám phá ra những quy luật, những tính chất hoặc những hiện tượng của thế giới vật chất tồn tại một cách khách quan mà trước đó chưa ai biết, nhờ đó làm thay đổi cơ bản nhận thức của con người.
Như vậy, trên thực tế, khái niệm sáng chế và phát minh có một số điểm tương đồng nên thường bị nhầm lẫn. Tuy nhiên, trong tài liệu chính thức của tổ chức WIPO phát hành có khẳng định: sáng chế là sản phẩm mới hoặc quy trình nhằm giải quyết một vấn đề kỹ thuật. Điều này khác với phát minh, đó là những cái tồn tại mà chưa tìm ra được. Có thể phân biệt sáng chế với phát minh thông qua một số nội dung sau cụ thể sau:
Thứ nhất, về yếu tố tính mới: phát minh chỉ có trong lĩnh vực khoa học tự nhiên, đã tồn tại khách quan (bởi vậy không có tính mới), trong khi đó thuộc tính quan trọng nhất bắt buộc phải có của sáng chế là tính mới.
Thứ hai, về giá trị giải thích sự vật, hiện tượng: phát minh đó là sự phát hiện một vật, một hiện tượng hoặc một quy luật tồn tại khách quan của tự nhiên mà con người chưa từng biết tới, do đó nó có khả năng giải thích thế giới, giải thích sự phát triển của sự vật, hiện tượng, trong khi đó sáng chế không có khả năng này.
Thứ ba, về khả năng áp dụng trực tiếp: phát minh mới chỉ dừng lại ở sự “phát hiện” mang tính chất sơ khai nhất, nên chưa thể áp dụng trực tiếp vào sản xuất đời sống, nhưng sáng chế là giải pháp kỹ thuật dưới dạng sản phẩm hoặc quy trình nhằm giải quyết một vấn đề xác định bằng việc ứng dụng các quy luật tự nhiên có khả năng áp dụng trực tiếp vào đời sống xã hội, đem lại những giá trị thương mại – kinh tế.
Thứ tư, về giá trị thương mại, phát minh không có giá trị thương mại, bởi đơn thuần nó chưa được áp dụng trực tiếp vào sản xuất đời sống, trong khi đó sáng chế lại có đặc tính này, người ta có thể mua, bán sáng chế. Ví dụ: Năm 1982, kỹ sư người Đức Rudolf Diesel phát minh ra động cơ diesel. Do tính ưu việt của động cơ này mà người ta có thể ứng dụng nó vào sáng chế tạo ra các loại máy móc được sử dụng rộng rãi trong các ngành công nghiệp đặc biệt là ngành giao thông vận tải. Như vậy, động cơ Diesel là phát minh, còn máy móc chạy bằng động cơ diesel là sáng chế.
1.2.2. Phân biệt sáng chế với mẫu hữu ích/giải pháp hữu ích
Xét dưới góc độ pháp luật quốc tế, mẫu hữu ích/giải phát hữu ích tên tiếng Anh là Utility Model, nó được pháp luật một số quốc gia quy định cụ thể, trong đó, sáng chế có thể được bảo hộ dưới dạng “mẫu hữu ích”. Tùy theo pháp luật của từng quốc gia mà “mẫu hữu ích” có thể được gọi là “giải pháp hữu ích” hoặc “sáng chế nhỏ”… Xét dưới góc độ khoa học pháp lý, “mẫu hữu ích” đề cập đến hình dạng của sản phẩm, cơ cấu, hoặc sự kết hợp của họ về các giải pháp kỹ thuật thực tế, còn được gọi là Gizmo hoặc bằng sáng chế nhỏ. Đó là mức độ sáng tạo và kỹ thuật thấp hơn so với các bằng sáng chế, nhưng giá trị thực tế tuyệt vời để có bằng sáng chế về việc phê duyệt đơn giản hóa thủ tục và rút ngắn thời gian bảo vệ, giảm phí cách để bảo vệ chúng. Trên mẫu hữu ích, một số quốc gia không phản đối bảo hộ sáng chế của nó như là một riêng biệt, nhưng sẽ được đặt để bảo vệ bằng sáng chế phát minh của họ. Hơn nữa, một số quốc gia được phân loại như các đối tượng độc lập bảo vệ bằng sáng chế mẫu hữu ích, mô hình tiện ích này chủ yếu đề cập Gizmo. Còn “giải pháp hữu ích” được hiểu là giải pháp kỹ thuật mới so với trình độ kỹ thuật trên thế giới, có khả năng áp dụng trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội, giải pháp được coi là mới nếu nó chưa được bộc lộ công khai trên thế giới dưới bất kỳ hình thức nào đến mức căn cứ vào đó có thể thực hiện được ngay [32, tr. 286]. Như vậy, xét dưới góc độ hình thức bên ngoài, sáng chế và mẫu hữu ích/giải pháp hữu ích có nhiều điểm tương đồng, như: (i) đều có tính mới; (ii) đều có khả năng áp dụng trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội; có giá trị thương mại; (iii) đều được pháp luật bảo hộ… Tuy nhiên, trên thực tế, sáng chế và mẫu hữu ích/giải pháp hữu ích vẫn tồn tại những điểm khác biệt nhất định, cụ thể:
Thứ nhất, về mức độ bảo hộ, các yêu cầu để mẫu hữu ích/giải pháp hữu ích được bảo hộ với mức độ ít nghiêm ngặt hơn so với sáng chế.