3.4. Đặc sắc ngôn ngữ của Nam Cao
3.4.1. Ngôn ngữ tác giả kiệm lời, đầy suy ngẫm và triết lí
Có thể nói ngôn ngữ là một phương diện đặc biệt thành công trong Sống mònNam Cao đã xây dựng được một hình thức ngôn ngữ đa thanh, giàu tính tạo hình vừa sinh động lại vừa phản ánh rõ nét tính cách nhân vật. Sự thành công về mặt ngôn ngữ của Sống mòn thể hiện ở cả ngôn ngữ người kể chuyện lẫn ngôn ngữ nhân vật, cả ngôn ngữ độc thoại lẫn ngôn ngữ đối thoại.
Sống mòn được kể ở ngôi thứ ba, nghĩa là không có nhân vật xưng "tôi" nào đứng ra kể lại câu chuyện. Nhưng điều đặc biệt là, ở đây, người kể chuyện không hề tách riêng hẳn ra mà nhiều lúc đứng lẫn vào nhân vật, có khi phân thân, hoà hợp vào nhân vật, làm cho tác phẩm không còn đơn thanh, một giọng mà trở thành đa thanh, phức điệu, tạo nên nét độc đáo cho tác phẩm.
Thứ là nhân vật luôn luôn bị giằng xé bởi những mâu thuẫn. Bởi vậy trong con người y hầu như lúc nào cũng có cuộc giằng co giữa hai tiếng nói: một bên là tiếng nói tự phê phán của con người giàu lòng tự trọng, có nhân cách, biết yêu thương, biết chia sẻ còn một bên là tiếng nói đầy tự ái của một anh chàng sống che đậy bởi cái giả dối bề ngoài, sĩ diện hão, có khi ôm ấp những lãng mạn viển vông. Chính vì vậy, nhiều lúc, Nam Cao đã chớp lấy tiếng nói thứ nhất của nhân vật để tạo nên giọng điệu đầy suy ngẫm triết lý: "Đau đớn thay cho những kiếp sống khao khát muốn vươn lên cao nhưng lại bị áo cơm ghì sát đất"; "Kiếp chúng mình sao tức lạ. Sao mà cái đời nó tù túng, nó chật hẹp, nó bần tiện thế! Không bao giờ dám nhìn cao một tý. Chỉ những lo ăn, lo mặc. Hình như tất cả nguyện vọng... như vậy thì sống làm gì cho cực". Vẫn là thứ ngôn ngữ kể chuyện nhưng hóm hỉnh vô cùng, như nhân vật tự nói với chính mình, tự mỉa mai mình: "Y tưởng tượng ra nét mặt của bà Ngọt, bà thợ giặt, những bà láng giềng khác, bàn tán to nhỏ với nhau về những ông giáo với cô giáo bên trường (...) Rồi một bà chẩu môi, rên lên, hạ
một câu bình phẩm thế mà bấy lâu nay không ai biết, cũng mang tiếng ông giáo với bà giáo quần áo là, sơ mi trắng, thắt ca vát, giầy tân thời, thứ năm, chủ nhật diện ngất, tưởng màu mỡ lắm, thế mà kì thực bụng chứa toàn rau muống luộc!... Tiếng cười vỡ lở ra, ằng ặc, hi hi, hô hố (...) Y nhớ đến một vài thiếu nữ quen mặt khác, sáng sáng các cô cắp rổ hay xách làn mây đi qua trước cửa trường, y vẫn làm ra vẻ bạo dạn, ra đứng hiên gác nhìn họ để được thấy họ rất tự nhiên. Những lúc ấy chắc mặt y cũng phải vênh váo lắm đấy chứ chẳng chơi đâu. Rõ thật dơ! Giáo khổ trường tư mà cũng đòi nhìn mắt gái tân thời! Liệu lương có đủ cho người ta mua phấn đánh không. Bụng toàn rau muống luộc đấy, ai mà còn chẳng biết"[6; 578-579]. Sự chuyển đổi điểm nhìn từ người kể chuyện sang nhân vật, từ ngôi thứ ba sang ngôi thứ nhất đã khiến khoảng cách giữa người đọc và nhân vật được thu hẹp lại; người đọc như đang tham gia vào câu chuyện, là một đối tượng tiếp xúc trực tiếp, nhìn nhận, đánh giá nhân vật. Nhà văn như lùi lại sau hàng rào ngôn ngữ, để người đọc cảm nhận được trực tiếp cái đa thanh của của cuộc đời.
Văn Nam Cao rất ít miêu tả ngoại cảnh, rất ít để lộ những đoạn kể, những đoạn dẫn truyện. Chủ yếu là những câu văn ngắn gọn, ngay cả khi viết những câu dài, những câu ấy cũng được ngắt ngắn, làm cho mạch văn đi nhanh, giọng văn đanh lại. Đặc điểm này rất phù hợp với tính chất giàu suy ngẫm và triết lý trong ngôn ngữ của Nam Cao. Trong Sống mòn, độc thoại nội tâm xuất hiện khá dày đặc, dai dẳng, kéo dài gây cảm giác bức bối. Các đoạn độc thoại nội tâm hoà quyện với ngôn ngữ kể chuyện khiến Sống mòn cứ như trôi đi theo tâm tưởng của nhân vật Thứ. Qua những độc thoại nội tâm của Thứ, mọi thói do dự, nhỏ nhen, ích kỉ, sỹ diện hão của người trí thức tiểu tư sản nghèo được phơi bày chân thực và sắc nét. Nhân vật như tự trải lòng mình qua từng trang sách. Họ tự khám phá mình, dằn vặt mổ xẻ mình. Những ganh ghét ích kỉ hiện lên không cần che đậy qua những cuộc độc thoại nội tâm dài.
Có thể bạn quan tâm!
- Nghệ Thuật Đúc Kết Triết Lí Của Nam Cao
- Giá Trị Điển Hình Và Tính Phổ Quát
- Thời Gian Ứ Đọng, Trì Trệ Và Dồn Nén
- Giá trị và vị trí của Sống mòn trong sự nghiệp viết của Nam Cao - 12
Xem toàn bộ 101 trang tài liệu này.
Và cũng từ đây, bi kịch tinh thần của Thứ, của những người trí thức bị cuộc sống ghì sát đất thể hiện với đầy cay đắng, chua xót: "Mẹ kiếp ! Chẳng đi nữa! mặc kệ trường! Mặc kệ học trò! Cứ nằm đây này, nhất định không đi đâu! Muốn ra sao cũng được" Sau khi dằn dỗi nói thành lời những ý nghĩ liều lĩnh nẩy trong óc, Thứ lại trở nên bình tĩnh và suy nghĩ: "Gaọ...thuốc của con...bà chết...và chính y ngồi nhìn, mắt đỏ ngầu, chẳng biết làm thế nào cho ra tiền, ra gạo, ra thuốc... À! không được! Y không thể nghĩ liều. Cơm, áo, vợ, con, gia đình...bó buộc y. Y cứ phải gò cúi mãi!..." [ 6; 655].
Như vậy, độc thoại nội tâm giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong việc tái hiện những giằng xé của hai tiếng nói trong con người Thứ, khiến Sống mòn đem lại được những dấu ấn mới và khác lạ cho thành tựu của trào lưu văn học hiện thực trước 1945.
3.4.2. Ngôn ngữ nhân vật sống động phù hợp tính cách và hành động
Đọc Sống mòn ngôn ngữ đối thoại tuy xuất hiện không nhiều bằng ngôn ngữ độc thoại nội tâm và ngôn ngữ kể chuyện nhưng cũng rất thành công, tạo ra sự hấp dẫn riêng. Nam Cao có biệt tài sử dụng ngôn ngữ nhân vật gần gũi với lời ăn tiếng nói hàng ngày của nhân dân, hơn nữa lại rất có hồn, cảnh ngộ nào ngôn ngữ ấy, lời lẽ nào tính cách ấy, không cầu kì, sang trọng. Tiếp xúc với những đoạn đối thoại trong tiểu thuyết này, ta có thể thấy chân dung các nhân vật hiện lên thật sắc sảo, sống động. Đó có khi là thứ ngôn ngữ ỡm ờ, không đầu không cuối của bọn thằng ở, con sen nơi máy nước đầu đường:
"- Rõ thối nhà anh lắm!
- Sao mà thối? Chỗ bạn máy nước với nhau, tôi hỏi thế đã sao chưa?
- Ai khiến hỏi?
-Thì thôi! Hì...hì...hì! (...)
- Có muốn tôi bẹp mẹ cái thùng của chị không?
- Làm gì thế?
- Làm cái chơi! Mô vội quát to:
- Nhờ anh em một tí! Nhà tôi đấy! (...)
- Đây rồi! Xách ra!...
Hà đặt nốt chiếc thùng nữa.
- Tiện tay!
Một anh con trai đứng gần sỗ sàng:
- Tiện tay!... Anh Mô a, tiện tay anh hộ cô ấy luôn cái nữa!".
Đó là ngôn ngữ đầy lòng cảm thông của bà mẹ Hà - một bà mẹ nghèo thấu hiểu lẽ đời trước hạnh phúc của con trẻ, bà cũng rất thương Mô: "- Anh nghèo thì mẹ con tôi cũng hết nói là giàu. Cảnh anh với chúng tôi thì cũng rứa như nhau. Tôi cũng biết, bắt anh cưới thì anh chẳng lấy tiền đâu mà cưới..." [6; 567].
Tiếp nữa là ngôn ngữ đáo để của ông Học với anh xe thuê nhà muốn mặc cả về đôi chiếu:
"- Sao lại để không? Đôi chiếu còn mới nguyên, lão ta mua để đắp chứ có trải giường đâu! Với lại có giải cũng chẳng sao. Lão ta có một mình chứ có đàn bà đàn biếc gì đâu mà bảo phải kiêng. Với lại dẫu có là đàn bà cũng chẳng phải kiêng. Giặt là sạch hết". [6; 650]
Cũng vẫn là đôi chiếu đó, khi anh xe chưa ở hết hạn thuê tháng, muốn xin lại chỗ tiền thừa: " – Anh không dùng nữa thì đem mà đốt nó đi! Mặc kệ nhà anh! Anh nói dở vừa vừa chứ! Nhất ngay cho là vợ chồng anh ngủ có một đêm, anh có cho không tôi tôi cũng chả thèm. Anh đã mua rồi thì mặc anh.
Anh xuống cuộn lấy mà đem đi. Anh không đem đi, tôi cũng sai nó đem quẳng cho nó ra ngoài sông kia! Anh đừng vòi !..."[6; 685]
Và đây là thứ ngôn ngữ của người đàn bà ghen hộ kẻ khác, có khi là lời nói oán trách vừa đáng giận, vừa đáng thương của người bà, người mẹ vì khổ quá mà lạnh lùng, mà khó chịu với cháu dâu, con dâu...Bà ngoại y bảo:
" – Cô ấy đi buôn ngay từ độ cuối tháng giêng. Tết, anh đi được mấy hôm, thì cô ấy ốm qua loa mất mấy ngày. Nhức đầu, sổ mũi với ho qua quýt thôi, chứ có sao đâu. Thế mà nghe đâu cũng mất dăm đồng bạc thuốc. Cô ấy không dám sắc ở nhà, cô ấy mang về bên ấy sắc". Rồi bà cụ còn triết lý: "Nếu không có thuốc mà chết thì nhà nghèo chết sạch! Chỉ nhà giàu sống..."
Ngôn ngữ đối thoại còn giúp Sống mòn khắc hoạ rõ nét tính cách nhân vật. Những đoạn đối thoại của Thứ với Oanh, San, Mô khiến người đọc hình dung đầy đủ từng nhân vật. Các nhân vật soi chiếu vào nhau, cùng nhau thể hiện trọn vẹn tính cách của mình. Đó là lời của Mô chia sẻ cùng Thứ nỗi bất bình với Oanh:
"- Con nể bà Chánh với cậu Đích nhiều nên con mới ở đây, chứ những như cô giáo thì mấy cũng không chịu ở"...
Như vậy ngôn ngữ đa thanh, phức điệu, giàu tính tạo hình, giàu sức sống chính là một thành công của Nam Cao về phương diện ngôn ngữ trong Sống mòn. Nó cũng góp phần tạo nên tính hấp dẫn, độc đáo cho tác phẩm, là một khía cạnh không thể không nhắc đến khi nghiên cứu tiểu thuyết này.
Ngôn ngữ tác giả đậm triết lý và ngôn ngữ nhân vật độc đáo đã làm cho sáng tác của Nam Cao có khả năng vượt rất xa trong thời gian. Điều đó xác định tài năng và vị trí của Nam Cao trong trào lưu văn học hiện thực Việt Nam trước 1945.
KẾT LUẬN
1. Nam Cao là một nhà văn lớn, kết luận ấy đã được khẳng định từ lâu. Và dù cho những ý kiến bàn bạc, nghiên cứu về ông đến nay không còn ít, nhưng mỗi lần đọc Nam Cao, chúng ta vẫn có thể gặp được những ý nghĩ bất ngờ, lí thú. Sống mòn là một tác phẩm hứa hẹn nhiều bất ngờ. Ngoài những điểm chung với các nhà văn hiện thực cùng thời, Nam Cao ở một góc riêng, vẫn luôn nung nấu những khát vọng vượt thoát khỏi những quy phạm của thời đại để mở ra những lí tưởng thẩm mĩ mới. Điều này không chỉ được ông phát biểu thông qua lời tuyên bố của các nhân vật, mà còn thể hiện cụ thể trong thế giới nghệ thuật của mình.
2. Nam Cao là nhà văn của những người nông dân, nhà văn của những kẻ khốn khổ tủi nhục nhất trong xã hội thực dân phong kiến. Ông cũng là nhà văn của những người trí thức nghèo khổ, có tài năng, có tâm huyết, muốn vươn lên cao nhưng lại bị chuyện áo cơm ghì sát đất, phải sống kiếp "đời thừa", "sống mòn", đầy bế tắc. Nếu Chí Phèo (1940) là kiệt tác đầu tay, đánh dấu xự xuất hiện của nhà văn Nam Cao trong nền văn xuôi Việt Nam hiện đại thì Sống mòn (1944) là một hiện tượng độc đáo và đột xuất, là đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác của Nam Cao trong chặng mới - kết thúc xã hội thuộc địa. Sống mòn là tiểu thuyết duy nhất của Nam Cao, được viết trong một điều kiện khá đặc biệt, hội đủ những yếu tố quan trọng về mặt xã hội - thẩm mĩ để trở thành một đỉnh cao đặc sắc về nội dung, hiện đại về nghệ thuật. Với giá trị của Sống mòn Nam Cao trở thành nhà văn hiện thực xuất sắc, người kết thúc vẻ vang trào lưu văn học hiện thực Việt Nam 1941 – 1945.
3. Văn của Nam Cao luôn rất hiện đại. Tác phẩm của ông không bao giờ cũ mặc dù đề tài có thể không mới. Ở đề tài người nông dân, ông đã vượt qua nhiều nhà văn tầm cỡ như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan để đi tìm "cái bản tính tốt của con người ta bị những nỗi lo lắng, buồn đau, ích kỉ che lấp mất" (Lão Hạc). Và hơn thế ông còn khám phá, phát hiện và khẳng định cái
phần nhân tính con người vẫn còn sót lại, vẫn còn tiềm tàng ngay cả khi con người bị đẩy vào sự cheo leo nơi ranh giới giữa con người và con vật. Với Nam Cao, con người có thể bị huỷ hoại nhưng bản chất lương thiện của con người là vĩnh cửu, bất diệt. Có thể nói dù "sinh sau đẻ muộn" nhưng sáng tác của Nam Cao đã đạt đến vị trí đỉnh cao của chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam không chỉ ở đề tài nông dân mà ở cả đề tài người trí thức nghèo. Với chủ nghĩa hiện thực tâm lý – triết lý mang đậm cá tính sáng của Nam Cao, Sống mòn là những cảm nhận về hình tượng người trí thức nghèo trong vật lộn với cuộc sống mưu sinh và bế tắc về đời sống tinh thần. Là sự đề cao khát vọng sống cao đẹp của người trí thức kiểu Nam Cao. Đồng thời xác nhận một hiện thực đời sống ngưng trệ, tù đọng, quẫn bách, ở đó người trí thức bị huỷ hoại nhân tính, bị thui chột tài năng, mọi khát vọng sống cao đẹp bị đổ vỡ và ước mơ chân chính bị dập tắt.
Viết về con người, về nhân vật người trí thức, nhưng những gì Nam Cao viết không chỉ dừng lại ở những câu chuyện về nỗi thống khổ bị áp bức, tình trạng nghèo kém của con người. Sống mòn còn là những mặc cảm của sự tha hoá như một nét bản chất của sinh tồn, sự đày đoạ, sự bất lực của con người trước cuộc sống. Và hơn ai hết tấm lòng nhân đạo của Nam Cao đã nhìn rõ những bế tắc cả về tinh thần và vật chất của người trí thức nghèo, giúp họ vượt qua những bi kịch cuộc đời khi gắn kết họ trong mối quan hệ với nhân quần. Đây là một điểm mới và độc đáo trong sáng tác về đề tài người trí thức của Nam Cao.
Hơn nữa cái nhìn của Nam Cao về con người, cuộc sống là cái nhìn xoáy sâu vào bản chất của thế giới, xuất phát từ sự nhạy cảm tuyệt vời trước số phận con người. Chính vì thế, con người xã hội trong Sống mòn luôn mang dáng dấp con người xã hội của mọi thời đại. Ai trong chúng ta hôm nay không khỏi có những lúc "giật mình" nhìn lại chính mình bởi những khoảnh khắc ta đã "sống mòn", sống vô nghĩa, thậm chí thấy "đời thừa".
4. Có thể nói, Nam Cao đã mở ra những cánh cửa nghệ thuật mới của chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam. Hay nói cách khác, Nam Cao là người đưa chủ nghĩa hiện thực của văn học Việt Nam lên tới đỉnh cao, và tác phẩm Sống mòn là một kết thúc vẻ vang cho trào lưu văn học hiện thực đó. Nam Cao đã có những cách tân để thiên tiểu thuyết có một không hai này trở thành tác phẩm có lối viết mang tính hiện đại hết sức sâu sắc. Đó là nghệ thuật phân tích tâm lí và đúc kết triết lí bậc thầy; là lối viết tiểu thuyết như tự truyện mà vẫn giàu giá trị hiện thực và giá trị điển hình mang tính phổ quát.
Để thấm thía ý vị mòn mỏi của đề tài "sống mòn", Nam Cao đã khắc hoạ trong tác phẩm những khoảng không gian chật chội, tù túng; thời gian ứ đọng, trì trệ và dồn nén. Về ngôn ngữ, Nam Cao đặc biệt thành công khi xây dựng được một hình thức ngôn ngữ đa thanh, giàu tính tạo hình vừa sinh động lại vừa phản ánh rõ nét tính cách nhân vật. Cảnh ngộ nào ngôn ngữ ấy. Tính cách nào, lời lẽ ấy. Thế giới nhân vật trong Sống mòn thật đông đúc nhưng mỗi người một dạng "sống mòn" không ai giống ai. Những con người trong cảnh sống mòn mỏi ấy luôn ám ảnh người đọc bao thế hệ là nhờ biệt tài sử dụng ngôn ngữ của Nam Cao.
5. Với tất cả những gì đã thể hiện, Sống mòn là thiên tiểu thuyết giàu giá trị, một hiện tượng độc đáo và đột xuất, một đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác của Nam Cao. Không có Sống mòn thì mất đi một kết thúc hay nhất, quan trọng nhất của Nam Cao. Nó góp phần khẳng định tài năng của nhà văn, và góp phần làm phong phú thêm nền tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Cho dù thời gian có trôi đi, có lẽ Sống mòn vẫn luôn đồng hành với con người đương đại. Đọc Sống mòn để hiểu, để cảm thông, chia xẻ với buồn đau của những kiếp sống lầm than, những kiếp sống mòn của thời đại cũ. Để rồi mong ước ta sẽ không bao giờ rơi vào tình trạng quẩn quanh, bế tắc đó và hãy khát khao vươn tới một cuộc sống thực sự có ích, có ý nghĩa, xứng đáng với con người.