3.2.5. Tăng cường quản lý, giám sát hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh
Giải pháp này cũng cần phải tiến hành ngay và duy trì thường xuyên, liên tục. Bộ phận đảm nhiệm là bộ phận chuyên trách quản lý đầu tư, bộ phận kiểm toán, giám sát nội bộ.
Một trong những hoạt động đầu tư chiếm tỷ trọng vốn nhiều nhất là đầu tư cơ sở hạ tầng. VCB cần khẩn trương hoàn thiện các dự án xây dựng, cải tạo trụ sở của chi nhánh. Quản lý chặt chẽ đầu tư xây dựng cơ bản, rà soát cắt giảm các dự án chưa thực sự cấp bách và không mang lại hiệu quả. Tổ chức rộng rãi phương thức đấu thầu để lựa chọn nhà thầu tốt nhất với chi phí hợp lý nhất.
Tăng cường quản lý tài chính trên cơ sở xây dựng ngân sách và kế hoạch chi tiêu cụ thể, chi tiết để đánh giá đúng hiệu quả của từng đơn vị.
Thực hiện mua sắm tài sản trong kế hoạch và phạm vi dự toán được phê duyệt, căn cứ vào nhu cầu thực tế.
Thường xuyên rà soát, kiểm tra hồ sơ chứng từ trước khi thanh toán, đảm bảo chi đúng chế độ, không đầu tư vượt định mức.
Đẩy nhanh tiến độ xây dựng cơ bản nội bộ, đặc biệt trụ sở làm việc các chi nhánh, công ty con để khẩn trương đưa vào sử dụng, tránh lãng phí.
Việc đầu tư mở rộng các chi nhánh, phòng giao dịch cần phải được nghiên cứu và cân nhắc kỹ lưỡng vì chi phí đầu tư sẽ rất cao, nếu ở vị trí không thuận lợi hoặc quy mô không phù hợp sẽ gây lãng phí lớn. Do đó, chỉ nên tập trung mở rộng mạng lưới tại các địa bàn tiềm năng, khu đô thị, trung tâm thương mại, khu công nghiệp tập trung các đối tượng khách hàng mục tiêu của VCB.
Mua sắm tài sản phải căn cứ vào nhu cầu thực tế trên nguyên tắc tiết kiệm, tránh lãng phí, được thẩm định về giá cả và chất lượng thông qua khảo sát thị trường.
Có thể bạn quan tâm!
- Thị Phần Tín Dụng Năm 2012 Của Các Nhtm Việt Nam
- Đánh Giá Các Đối Thủ Cạnh Tranh Của Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Ngoại Thương Việt Nam
- Tăng Cường Huy Động Vốn Cho Đầu Tư Nâng Cao Năng Lực Cạnh Tranh
- Đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại cổ phẩn ngoại thương Việt Nam - 14
Xem toàn bộ 116 trang tài liệu này.
Hiện nay, hoạt động quản lý đầu tư của VCB được thực hiện qua một số bộ phận: bộ phận Quản lý xây dựng cơ bản, Trung tâm công nghệ thông tin và bộ phận
Quản trị, tùy thuộc vào đối tượng đầu tư khác nhau. Việc quản lý qua nhiều bộ phận khiến cho hoạt động đầu tư phân tán, khó quản lý. Để hoạt động đầu tư được giám sát chặt chẽ, VCB cần có một bộ phận quản lý thống nhất, dựa trên cơ sở kế hoạch, nhu cầu của các bộ phận.
Cùng với việc quản lý tập trung, cần phải xây dựng hệ thống báo cáo phù hợp tại các giai đoạn đầu tư, phù hợp với các đối tượng đầu tư. Việc kiểm tra, giám sát phải được tiến hành thường xuyên nhằm đảm bảo tiến độ, hiệu quả đầu tư.Để công tác báo cáo thực sự là công cụ hữu hiệu để quản lý hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh, các nhà quản lý cần phải đưa ra các tiêu chí cụ thể về nguồn lực, về kết quả, hiệu quả đạt được để đánh giá đúng chất lượng đầu tư và có những điều chỉnh kịp thời.
3.2.6. Tăng cường hợp tác với các đối tác chiến lược
Giải pháp này mang tính dài hạn và cần sự chỉ đạo, định hướng từ ban lãnh đạo ngân hàng. Hợp tác với các đối tác chiến lược là một giải pháp đáp ứng cả về mặt chất lượng và mặt thời gian trong việc tăng cường hiệu quả đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh. Hợp tác với đối tác chiến lược mang lại cho ngân hàng nhiều cơ hội cho đầu tư: cơ hội huy động vốn; cơ hội được tư vấn chiến lược đầu tư cũng như tham gia vào quá trình giám sát, quản lý đầu tư; cơ hội học hỏi kinh nghiệm quản lý; cơ hội chuyển giao những công nghệ hiện đại cũng như mở rộng thị trường.
Nhận thức được vai trò quan trọng và tích cực của đối tác chiến lược. Sau cổ phần hóa, VCB đã ngay lập tức xúc tiến việc tìm kiếm đối tác chiến lược. Để việc tìm kiếm và hợp tác với các đối tác chiến lược mang lại tác động tốt cho hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh, VCB cần lưu ý:
- Lựa chọn đối tác có tiềm lực, có thế mạnh trong những lĩnh vực VCB đang hướng tới.
- Lựa chọn đối tác am hiểu thị trường Việt Nam, có những điểm tương đồng trong tập quán kinh doanh để tránh những mâu thuẫn phát sinh trong quá trình hợp tác.
- Xây dựng và đàm phán những thỏa thuận hợp tác theo lộ trình, đặt ra những mục tiêu cụ thể, đáp ứng lợi ích của tất cả các bên.
- Trong quá trình hợp tác, thường xuyên có những hoạt động trao đổi kinh nghiệm, tìm hiểu thực tiễn và tiến hành đánh giá những kết quả đạt được sau mỗi giai đoạn hợp tác.
3.2.7. Mở rộng lĩnh vực hoạt động hướng tới hình thành tập đoàn tài chính
- ngân hàng
Hình thành tập đoàn tài chính – ngân hàng tạo điều kiện cho ngân hàng mở rộng thị trường, từ đó kích thích hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh.
Hình thành tập đoàn tài chính – ngân hàng trở thành xu thế trên thế giới khi ngân hàng đã phát triển đến một giai đoạn nhất định. Trở thành tập đoàn tài chính – ngân hàng cũng mang lại một tầm vóc lớn hơn, một vị thế cạnh tranh mạnh hơn cho ngân hàng. VCB cũng đi theo xu thế đó khi đặt ra tầm nhìn chiến lược đến năm 2020 trở thành 1 trong 70 tập đoàn tài chính – ngân hàng lớn trong khu vực, lấy NHTM là lõi.
NHTM trở thành tập đoàn tài chính – ngân hàng không đơn giản là sự mở rộng lĩnh vực hoạt động, tăng quy mô mang tính cơ học mà phải xuất phát từ những yêu cầu phát triển nội tại của ngân hàng gốc.
Tập đoàn tài chính – ngân hàng là một thực thể kinh tế gồm một nhóm doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng (bảo hiểm, ngân hàng, chứng khoán, quản lý quỹ,…). Mỗi thành viên tập đoàn là một pháp nhân độc lập, trong đó một doanh nghiệp hay một ngân hàng đóng vai trò là công ty mẹ làm nòng cốt. Tập đoàn Tài chính - ngân hàng không có tư cách pháp nhân riêng, trụ sở của tập đoàn là trụ sở của công ty mẹ.
Trong tập đoàn tài chính ngân hàng phải có sự thống nhất về nguyên tắc quản trị, cùng hướng tới tầm nhìn, sứ mệnh, hệ thống giá trị cốt lõi và hướng tới xây dựng thương hiệu chung cho cả tập đoàn.
Để xây dựng một tập đoàn vững mạnh, các công ty con (các bộ phận) phải có một mối liên hệ nhất định nằm trong một cơ cấu tổ chức chặt chẽ và hợp lý nhất
định. Giữa các thành viên trong tập đoàn có mối liên kết nhất định về vốn, quản trị, thương hiệu để cùng nhau thực hiện một liên kết kinh tế có quy mô lớn nhằm đạt được các tôn chỉ, mục đích, sứ mệnh và hiệu quả kinh doanh tối đa. Điều đó có nghĩa VCB phải nghiên cứu tìm ra cho mình một mô hình tập đoàn tài chính ngân hàng phù hợp, phù hợp với thể chế, môi trường vĩ mô, phù hợp với năng lực, thế mạnh của mình để vị thế của VCB ngày càng được củng cố và vững mạnh trên thị trường.
Việc hình thành tập đoàn tài chính ngân hàng mang lại tầm vóc mới cho NHTM, không chỉ mang lại lợi nhuận lớn hơn thông qua kinh doanh trong nhiều lĩnh vực mà còn là một cách để ngân hàng “thâu tóm” thị trường trong những lĩnh vực liên quan, củng cố thương hiệu, vị thế cạnh tranh.
Tập đoàn tài chính ngân hàng có thể được hình thành thông qua việc ngân hàng mẹ thành lập, góp vốn thành lập các công ty/ngân hàng trực thuộc ở trong và ngoài nước hoặc thông qua mua lại, sáp nhập, hợp nhất các công ty/ngân hàng trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng.
Mặc dù hiện nay ở Việt Nam, cơ sở pháp lý cho việc hình thành tập đoàn tài chính - ngân hàng còn nhiều bàn cãi nhưng với sự hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và nhu cầu phát triển nội tại của mình thì việc VCB trở thành tập đoàn tài chính – ngân hàng vẫn là xu thế tất yếu dù tồn tại dưới hình thức, tên gọi gì.
Trên cơ sở tiềm lực hiện tại, trải qua gần 50 năm kinh nghiệm hoạt động và nắm bắt thời cơ, xu thế phát triển, VCB xây dựng mô hình tập đoàn tài chính – ngân hàng theo mô hình ngân hàng đa năng. Theo mô hình này, VCB sẽ thành một bộ phận thuộc mảng hoạt động ngân hàng, đồng thời một số công ty mới sẽ được thành lập để kinh doanh trong các lĩnh vực tài chính và cả phi tài chính.
Việc hình thành tập đoàn tài chính ngân hàng theo mô hình này là một bước tiến lớn khẳng định vị thế, năng lực cạnh tranh của VCB. Để trở thành tập đoàn, VCB phải có những hoạt động đầu tư bài bản, quy mô nhưng có trọng tâm, trọng điểm:
- Đầu tư thông qua mua bán, sáp nhập công ty là một lựa chọn hiểu quả, khai thác được thị trường sẵn có.
- Triển khai đầu tư ra phạm vi quốc tế để mở rộng mạng lưới, tận dụng mối quan hệ đối tác quốc tế sẵn có.
- Khi tiến hành đầu tư vốn vào các công ty, VCB phải luôn chú trọng lựa chọn những đối tác có tiềm lực, uy tín, có kinh nghiệm trong lĩnh vực đầu tư.
- Rà soát lại thực trạng hoạt động các công ty liên doanh, liên kết, các đơn vị VCB góp vốn, đánh giá hiệu quả trong mỗi lĩnh vực góp vốn để có phương án tổng thế cho hoạt động đầu tư này.
Có thể nói, mở rộng lĩnh vực hoạt động nhằm hình thành tập đoàn tài chính - ngân hàng là một hoạt động quan trọng và ngày càng có ý nghĩa đối với VCB trong việc khẳng định tầm vóc và vị thế cạnh tranh của mình.
3.3. Kiến nghị
Khi kinh tế, đặc biệt là lĩnh vực tài chính ngân hàng hội nhập với nền kinh tế thế giới, cả nền kinh tế nói chung và khu vực tài chính – ngân hàng nói riêng sẽ dễ chịu ảnh hưởng của những tác động bên ngoài. Kinh nghiệm thực tế ở nhiều nước đã cho thấy tự dó hóa dịch vụ tài chính mà không đi cùng với tiến hành cải tổ các quy định về thể chế, pháp lý sẽ rất dễ dẫn đến khủng hoảng tài chính. Các quy định cần phải được xây dựng phù hợp với thông lệ quốc tế nhưng đảm bảo thận trọng, phù hợp với từng giai đoạn, mức độ hội nhập. Đây chình là vai trò quan trọng của các cơ quan quản lý nhà nước. Việc xây dựng hành lang pháp lý, thiết lập các nguyên tắc và tổ chức các hoạt động hỗ trợ, giám sát của Chính phủ và các cơ quan quản lý sẽ đảm bảo quá trình cạnh tranh giữa các ngân hàng diễn ra lành mạnh, thông qua đó, hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngân hàng cũng diễn ra đúng hướng và hiệu quả.
3.3.1. Kiến nghị với Chính phủ
Chính phủ đóng vai trò quan trọng trong việc phối hợp với Ngân hàng Nhà nước xây dựng định hướng, chiến lược tổng thể của ngành ngân hàng và kiểm soát việc thực hiện.
Bên cạnh việc phối hợp xây dựng chiến lược cho ngành ngân hàng, Chính phủ và các bộ ngành liên quan cần đặt sự phát triển của hệ thống ngân hàng trong sự phát triển tổng thể, đồng bộ của cả nền kinh tế xã hội. Do đó, Chính phủ cần chỉ đạo các bộ ngành liên quan tiến hành đồng bộ và mạnh mẽ các giải pháp:
- Tuyên truyền, khuyến khích người dân sử dụng các dịch vụ ngân hàng, giảm bớt tình trạng sử dụng tiền mặt trong thanh toán như hiện nay.
- Thúc đẩy sự phát triển của các ngành đầu vào, các lĩnh vực liên quan mật thiết đến ngân hàng: pháp luật, cơ sở hạ tầng, khoa học kỹ thuật, công nghệ thông tin, giáo dục đào tạo, thị trường chứng khoán, kế toán, kiểm toán,…để tạo điều kiện hỗ trợ cho hệ thống ngân hàng phát triển.
- Cải cách mạnh mẽ hệ thống doang nghiệp Nhà nước để hệ thống này vận hành hiệu quả, giảm gánh nặng nợ xấu cho các ngân hàng thương mại. Đồng thời, Chính phủ và các bộ, ngành địa phương tiếp tục khuyến khích các loại hình doanh nghiệp, các thành thành phần kinh tế phát triển, tạo điều kiện kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp này, nhằm mở rộng thị trường cho hệ thống ngân hàng.
3.3.2. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài Chính
* Kiến nghị liên quan đến môi trường pháp lý và chính sách
Trong điều kiện hiện nay, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho các hoạt động của hệ thống ngân hàng nhằm tạo lập hành lang pháp lý phù hợp với thông lệ quốc tế và hoàn cảnh thực tiễn của Việt Nam là vấn đề quan trọng. Điều này sẽ giúp cho các ngân hàng hoạt động an toàn, hiệu quả và cạnh tranh lành mạnh. Các quy định, chính sách đưa ra cần được cân nhắc thận trọng, đảm bảo minh bạch, tạo sự tin tưởng cho các ngân hàng.
Ngân hàng Nhà nước phối hợp với Bộ Tài chính và các cơ quan liên quan xem xét các vấn đề sau:
- Rà soát tổng thể và đối chiếu toàn bộ các quy định và văn bản pháp luật hiện hành, tính tương thích của các quy định và văn bản này với các cam kết và yêu cầu của các hiệp định quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng tài chính. Cần phải phát
hiện ngay ra những mâu thuẫn giữa hệ thống pháp lý trong nước với các cam kết quốc tế, từ đó sửa đổi và cập nhập hệ thống pháp lý hiện hành nhằm đảm bảo hệ thống ngân hàng hoạt động trong trong môi trường nhất quán, ổn định. Những sửa đổi đó phải đảm bảo sự tương tác và phù hợp với các luật khác cũng như bắt kịp các thông lệ quốc tế như quy định về tỷ lệ an toàn vốn, phòng ngừa và giải quyết rủi ro, tỷ lệ dự trữ bắt buộc,…
Việc sửa đổi, xây dựng các quy định, chính sách và cơ chế mới phải phù hợp với lộ trình thực hiện các cam kết quốc tế về tài chính ngân hàng, không thể kéo dài thời gian cũng như có những biện pháp bảo hộ các ngân hàng trong nước trái với cam kết. Trong quá trình này cũng phải đảm bảo giải quyết các vấn đề phát sinh mới của thị trường như quy định về đảm bảo an toàn của các giao dịch điện tử, quy định về các dịch vụ phái sinh (hợp đồng tương lai, quyền chọn, hoán đổi,…), dịch vụ ngân hàng qua biên giới,…
- Ngân hàng Nhà nước đẩy mạnh hơn nữa và thể chế hóa việc áp dụng các chuẩn mực và thông lệ quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng vào hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam. Điều này thúc đẩy mạnh mẽ các ngân hàng đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh, tạo cơ hội cho các ngân hàng trong nước cạnh tranh với các ngân hàng trong khu vực. Mặt khác, việc áp dụng các chuẩn mực và thông lệ quốc tế phù hợp cũng giúp ngăn chặn và kiểm soát việc hình thành các ngân hàng yếu kém, gây ảnh hưởng đến hoạt động của cả hệ thống và nền kinh tế như giai đoạn bùng nổ các ngân hàng tại Việt Nam vừa qua.
- Ngân hàng Nhà nước cần triệt để xóa bỏ các văn bản, thủ tục có tính chất bảo hộ và phân biệt đối xử giữa các ngân hàng nhằm đảm bảo cạnh tranh lành mạnh, và đó cũng là động lực thúc đẩy các ngân hàng tăng cường năng lực cạnh tranh của mình. Chính phủ và các cơ quan quản lý ngân hàng cần có những cải tổ mạnh mẽ hơn nữa trong việc quản lý các NHTM quốc doanh và các ngân hàng Nhà nước giữ cổ phần chi phối nhằm tạo ra một môi trường kinh doanh mang tính thị trường hơn.
- Trong điều kiện hệ thống ngân hàng tài chính Việt Nam còn non yếu, chưa đủ mạnh để vận hành hoàn toàn theo cơ chế thị trường, thì các chính sách đưa ra cũng cần phải hướng hoạt động cạnh tranh của các ngân hàng trong một khuôn khổ pháp lý phù hợp, mang tính định hướng, tránh những cuộc đua cạnh tranh lãi suất tiêu cực như thời gian vừa qua. Cải cách, mở cửa ngành tài chính không có nghĩa là để thị trường thao túng, hay để cho các ngân hàng nước ngoài, các dòng vốn nước ngoài tự do hoạt động mà đòi hỏi phải có một hệ thống kiểm soát chặt chẽ để tính thị trường, tính cạnh tranh phát huy hiệu quả, hạn chế những tiêu cực, mặt trái của hội nhập.
Với 2 mục tiêu có phần đối lập và mâu thuẫn nhau, việc cải tổ theo lộ trình, phù hợp với từng giai đoạn nhưng đảm bảo một định hướng lâu dài là nhiệm vụ đặt ra cho Ngân hàng Nhà nước và bộ ngành liên quan.
* Kiến nghị về chiến lược phát triển
Cần phải có một chiến lược tổng thể cho ngành ngân hàng trong cả ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Ngân hàng Nhà nước là cơ quan chịu trách nhiệm chính trong việc hoạch định và thực thi chiến lược.
- Đưa ra các chính sách kiên quyết nhằm lành mạnh hóa và cải thiện năng lực tài chính cho các NHTM Viêt Nam. Đây chính là giải pháp căn bản nhằm cải thiện năng lực cạnh tranh của các ngân hàng trong nước. Các cơ quan quản lý Nhà nước cần phối hợp để giảm nợ xấu và tăng khả năng kiểm soát chất lượng tín dụng, đặc biệt là của các ngân hàng quốc doanh và thực hiện đúng lộ trình tăng vốn, tăng tổng tài sản nhằm đảm bảo tính an toàn cho hệ thống. Chiến lược phát triển phải phù hợp với thời đại, phát huy những chức năng của ngân hàng hiện đại, vì vậy, cơ quan quản lý phải có những định hướng, những chính sách kịp thời để hỗ trợ các ngân hàng có điều kiện phát triển theo định hướng.
- Tiếp tục cơ cấu lại hệ thống ngân hàng. Cơ cấu lại hệ thống ngân hàng không chỉ là giải quyết các khoản nợ xấu trong quá khứ và hiện tại mà còn phải xây dựng một hệ thống đảm bảo các vấn đề này không tái diễn trong tương lai và hướng đến một mô hình hoạt động hiệu quả. Như vậy, không chỉ tái cơ cấu tài chính mà
cần phải chú trọng cơ cấu tổ chức, bộ máy quản trị và nguồn nhân lực. Tiếp tục đẩy mạnh cổ phần hóa các NHTMQD, giảm dần sự can thiệp không mang tính thị trường vào hoạt động của các ngân hàng thương mại. Trước áp lực cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài cũng như yêu cầu đảm bảo hoạt động lành mạnh của hệ thống, Ngân hàng Nhà nước cần phối hợp với các ngân hàng thương mại để xây dựng một kế hoạch hành động rõ ràng nhằm tiếp tục củng cố, tăng cường năng lực tài chính, năng lực quản lý cho các ngân hàng đủ điều kiện, kiên quyết giải thể, sáp nhập các ngân hàng yếu kém.
* Kiến nghị liên quan đến quản trị và vận hành
Ngân hàng Nhà nước cần phải ban hành đầy đủ và bắt buộc áp dụng các chuẩn mực kế toán quốc tế. Việc theo dõi, giám sát, đánh giá hoạt động của các ngân hàng phải dựa trên hệ thống các tiêu chuẩn này nhằm đảm bảo tính chính xác, minh bạch, khách quan cũng như đánh giá đúng thực trạng hoạt động của các ngân hàng. Việc áp dụng các chuẩn mực kế toán, tài chính theo tiêu chuẩn quốc tế cũng chính là giải pháp thúc đẩy các NHTM trong nước tăng năng lực cạnh tranh quốc tế, tạo điều kiện cho các ngân hàng đánh giá chính xác kết quả hoạt động, kinh doanh, đầu tư của mình.
3.3.3. Kiến nghị với Hiệp hội Ngân hàng
- Hiệp hội ngân hàng có vai trò bảo vệ lợi ích của các thành viên trong đối thoại với Chính phủ, trong vận động hành lang ở các cuộc đàm phán thương mại quốc tế và trong việc chia sẻ thông tin giữa các thành viên,… Hiệp hội đại diện cho tiếng nói của các ngân hàng. Vì thế hiệp hội cần chủ động tham gia vào quá trình xây dựng chính sách, đồng thời phát huy vai trò là tiếng nói công bằng của tất cả các thành viên trong hiệp hội.
- Hiệp hội Ngân hàng cần hỗ trợ thông tin cho các ngân hàng để đảm bảo cạnh tranh trong hệ thống lành mạnh cũng như đảm bảo cho các ngân hàng có nguồn thông tin đáng tin cậy hỗ trợ cho hoạt động đầu tư.
- Trước những vấn đề nổi cộm, cấp thiết như cạnh tranh không lành mạnh, cải tiến công nghệ, chảy máu chất xám ngành ngân hàng, … hiệp hội cần chủ động
tổ chức các hội thảo để chia sẻ kinh nghiệm, tăng cường hợp tác giữa các ngân hàng, cạnh tranh nhưng vẫn đảm bảo sự phát triển chung của toàn hệ thống.
KẾT LUẬN
Trải qua một quá trình phát triển 50 năm, bên cạnh thế mạnh truyền thống trong các lĩnh vực bán buôn như thanh toán xuất nhập khẩu, kinh doanh ngoại tệ, tín dụng,… VCB đã bắt đầu đẩy mạnh kinh doanh bán lẻ. Tuy nhiên, trong điều kiện mở cửa thị trường tài chính và thực hiện các cam kết quốc tế, cùng với những khó khăn của suy giảm kinh tế, VCB đã và đang đứng trước nguy cơ mất dần đi các thế mạnh, giảm sút thị phần trong nhiều lĩnh vực. So với các ngân hàng khác, VCB vẫn có thế mạnh cạnh tranh thể hiện ở lượng khách hàng truyền thống đông đảo, ưu thế trong việc cạnh tranh bằng giá, bằng chất lượng đối với một số sản phẩm chủ lực và có một thương hiệu uy tín. Tuy nhiên, VCB lại gặp phải một số hạn chế: sản phẩm dịch vụ chưa đa dạng, phong phú, tính năng sản phẩm chưa hiện đại, đặc biệt là dịch vụ bán lẻ; các biện pháp khuếch trương thương hiệu, xúc tiến bán hàng còn đơn điệu, kém hấp dẫn, chưa đạt hiệu quả cao. Trong bối cảnh đó, chiến lược cạnh tranh của VCB là tiếp tục giữ vững, củng cố vị thế cạnh tranh của lĩnh vực bán buôn truyền thống, đồng thời đẩy mạnh cạnh tranh trong lĩnh vực bán lẻ; tận dụng tối đa công cụ chất lượng sản phẩm, thương hiệu uy tín để khẳng định vị thế của một ngân hàng hàng đầu Việt Nam và trở thành một trong 70 tập đoàn tài chính lớn khu vực Châu Á trước năm 2020. Do đó, đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của VCB cần tập trung mạnh mẽ vào công nghệ, nâng cao trình độ nhân lực, phát triển thương hiệu và xúc tiến bán hàng. Thực tế thời gian qua, vốn cho đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh tại VCB khá lớn và có xu hướng tăng hàng năm. Vốn khai thác chủ yếu từ những nguồn ổn định như vốn tự có với các kênh huy động khá đa dạng, hiệu quả. Xét theo nội dung đầu tư, đầu tư cho máy móc thiết bị (công nghệ phần cứng), đầu tư cơ sở hạ tầng chiếm tỷ trọng lớn trong khi đó đầu tư cho các giải pháp phần mềm, cho nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ, phát triển thương hiệu và xúc tiến bán hàng lại chiếm tỷ trọng nhỏ. Với thực trạng như vậy, tác giả đã phân tích, đánh giá kết quả, hiệu quả của hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh tại VCB. Có thể thấy rằng, đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh tại VCB thời gian qua, với cơ chế tác động cả trực tiếp và gián tiếp, đã mang lại những kết quả tích cực cho năng
lực cạnh tranh. Đó là sự cải thiện của năng lực tài chính với quy mô vốn, tài sản tăng nhanh, lợi nhuận lớn; năng lực công nghệ với hệ thống công nghệ hiện đại hơn, đáp ứng tốt hơn nhu cầu quản lý và phát triển sản phẩm; năng lực sản phẩm với việc ra đời nhiều sản phẩm mới trên nền tảng công nghệ hiện đại; năng lực quản trị, năng lực đội ngũ cán bộ, năng lực hệ thống phân phối cũng có những biến chuyển tích cực. Mặc dù vậy, xét theo mục tiêu cạnh tranh, hiệu quả đầu tư chưa cao: thị phần nhiều sản phẩm giảm sút, doanh số và lợi nhuận tăng chưa tương xứng với chi phí bỏ ra. Nghiên cứu đã chỉ ra những hạn chế của đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh tại VCB: đó là hiệu quả đầu tư thấp; đầu tư dàn trải, không đúng trọng tâm, trọng điểm; đầu tư thiếu tính chuyên nghiệp, chưa đáp ứng được yêu cầu của ngân hàng hiện đại; đầu tư chưa kịp thời. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến những hạn chế đó, trong đó có cả những nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan, nổi bật là công tác huy động vốn chưa đáp ứng nhu cầu đầu tư, trình độ và kinh nghiệm của cán bộ làm công tác quản lý đầu tư hạn chế, ảnh hưởng của cơ chế ngân hàng nhà nước nên VCB chưa xây dựng được một chiến lược cạnh tranh và đầu tư phù hợp.
Trên cơ sở phân tích thực tiễn đó, một nội dung quan trọng nghiên cứu đưa ra là những đề xuất nhằm tăng cường đầu tư cũng như tăng cường hiệu quả của hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh nhằm khắc phục những hạn chế hiện tại và giúp VCB đạt được những mục tiêu chiến lược đặt ra trong tương lai.