Thị Phần Tín Dụng Năm 2012 Của Các Nhtm Việt Nam



Thị phần tín dụng cuối năm 2012

Agribank, 17.61%

các NH khác, 31.42%

Vietinbank, 12.22%

HSBC, 1.17%

SHB, 2.08%

Techcombank, 2.50%

MB, 2.73%

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 116 trang tài liệu này.

BIDV, 11.80%

VCB, 8.84%

Đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại cổ phẩn ngoại thương Việt Nam - 10

EIB, 2.75%

STB, 3.11%

ACB, 3.77%


Biểu đồ 2.9 Thị phần tín dụng năm 2012 của các NHTM Việt Nam

Thứ ba, đầu tư chưa kịp thời

Đầu tư chưa kịp thời thể hiện rõ nhất ở hoạt động đầu tư nâng cao trình độ công nghệ: Trước đây, VCB được đánh giá là ngân hàng đi tiên phong trong ứng dụng công nghệ hiện đại vào kinh doanh, nhưng gần đây, VCB đã mất đi thế mạnh đó. Core banking chính là biểu hiện rõ nhất của cuộc chạy đua về công nghệ. Hệ thống ngân hàng lõi Core Banking SilverLake SIBS Axis (Malaysia) được VCB đầu tư từ những năm 1999 cho đến nay trong khi nhiều ngân hàng khác đã ứng dụng các hệ thống Core Banking hiện đại hơn:

+ Năm 2005 Techcombank là ngân hàng đầu tiên sử dụng phần mềm GLOBUS T24 rất hiện đại của Temenos (Thụy Sĩ) tại Việt nam. Đến nay đã có 13 ngân hàng lớn nhỏ sử dụng T24 như: Techcombank, Sacombank, SeAbank, ngân hàng Quân Đội, VP bank...

+ ACB sử dụng giải pháp TCBS của Unisys,

+ VIBank, HDBank sử dụng giải pháp Symbol System của hãng System


Access,

+ Agribank sử dụng giải pháp Huyndai,

+ MHB, Đại Á,... sử dụng TI core (Transinfotech - Singapore),

+ Habubank, PG Bank, Liên Việt, và INDOVINA sử dụng I-Flex của FLEXCUBE.

Theo nguồn http://www.inntron.com/core_banking.html [55] đánh giá xếp hạng các phần mềm Core banking trên thế giới thì trong thời gian 6 năm gần đây, Core banking của Temenos thường xuyên đứng ở vị trí thứ 3,4; Core banking I-Flex ở vị trí thứ 3; Core banking Silverlake thường chỉ ở vị trí thứ 9,10; Core banking Symbol System ở vị trí 11,12. Như vậy, có thể thấy rằng Core banking VCB đang sử dụng không phải là công nghệ hiện đại tại Việt Nam và do đó sẽ kém cạnh tranh hơn một số ngân hàng khác. Bắt đầu từ 2012, VCB mới bắt đầu dự án chuyển đổi core banking mới với giải pháp của Công ty Fiserv (Mỹ) – được đánh giá là hiện đại, thuộc top 10 trong các hệ thống core banking trên thế giới.

Công nghệ thẻ chip đã xuất hiện trên thế giới từ lâu và VCB cũng đã có kế hoạch ứng dụng công nghệ này từ năm 2005 nhưng cho đến tận tháng 4/2009, VCB mới chính thức triển khai và chuyển đổi công nghệ thẻ từ sang công nghệ thẻ chip.

Cho đến nay, VCB vẫn ứng dụng chung giữa những công nghệ cũ, lạc hậu với những công nghệ mới. Thậm chí trong cùng một nghiệp vụ, cán bộ ngân hàng vẫn phải thao tác xử lý nghiệp vụ trên nhiều chương trình khác nhau, có những chương trình không xử lý dữ liệu tự động gây khó khăn, giảm hiệu quả công việc.

Thứ tư, đầu tư dàn trải, chưa đúng trọng tâm, trọng điểm

Với năng lực cạnh tranh và môi trường cạnh tranh như thời gian vừa qua, VCB phải đầu tư mạnh mẽ cho công nghệ để đa dạng hóa sản phẩm và đầu tư chuyên sâu cho phát triển thương hiệu và xúc tiến bán hàng. Tuy nhiên, đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của VCB thời gian qua còn dàn trải và bất hợp lý, chưa tập trung vào trọng tâm (xem bảng 2.1). Đầu tư cho máy móc thiết bị và cơ sở hạ tầng chiếm một tỷ trọng vốn quá lớn mà không có sự phát triển tương ứng của công nghệ


phần mềm và kỹ năng của đội ngũ nhân viên. Điều này khiến cho năng lực cạnh tranh sản phẩm, năng lực công nghệ đang dần mất đi thế mạnh.

Đầu tư cho các hoạt động phát triển thương hiệu, xúc tiến bán hàng còn thiếu. Các chương trình khuyếch trương, quảng bá thương hiệu, sản phẩm chưa được đầu tư một cách chuyên nghiệp, quy mô lớn và thường xuyên. Các hình thức quảng cáo đầu tư còn đơn điệu, manh mún. Phương thức bán hàng, phân phối sản phẩm chưa được đầu tư một lượng vốn phù hợp để có thể triển khai một cách đồng bộ, chuyên nghiệp.

Thứ năm, hoạt động quản lý đầu tư còn nhiều bất cập

Việc xây dựng kế hoạch đầu tư hàng năm còn thiếu các căn cứ khoa học, thực tiễn. Có nhiều yếu tố không được đánh giá đúng mức như không căn cứ vào tình hình biến động thực tế của kinh tế, xã hội, nhu cầu phát triển của từng chi nhánh, địa bàn hoạt động, năng lực của các đối thủ cạnh tranh,…vì thế kế hoạch đầu tư thiếu thực tiễn, không khả thi.

Công tác kiểm tra, giám sát, báo cáo chưa đánh giá kịp thời hiệu quả đầu tư, chưa gắn hiệu quả đầu tư với năng lực cạnh tranh của ngân hàng. Tiêu chuẩn đầu tư chưa tiếp cận thông lệ thế giới. Hàng năm, VCB đều có những tổng kết, báo cáo hoạt động chung của ngân hàng, trong đó có hoạt động đầu tư. Tuy nhiên, VCB chưa đưa ra những đánh giá hiệu quả của từng hoạt động đầu tư. Mặt khác, trong quá trình triển khai đầu tư, công tác kiểm tra, giám sát, báo cáo chưa được tiến hành bài bản để nắm bắt được tiến độ đầu tư cũng như kịp thời có những điều chỉnh cần thiết, đảm bảo mục tiêu và hiệu quả cao nhất. Hoạt động đánh giá hiệu quả đầu tư chưa gắn với những đánh giá về năng lực cạnh tranh của ngân hàng, do đó chưa rút ra được những tác động tương quan chặt chẽ, chưa đánh giá đúng tầm quan trọng của đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh. Chế độ hạch toán, các tiêu chí tài chính chưa theo sát các chuẩn mực, thông lệ của thế giới dẫn đến những đánh giá sai lệch, hạn chế trong việc xây dựng kế hoạch.

2.3.4. Nguyên nhân của những tồn tại trong hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh tại Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam


(1) Nguyên nhân chủ quan:

Thứ nhất, công tác huy động vốn yếu kém

Vốn cho đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh tại VCB thời gian qua chưa đáp ứng được nhu cầu đầu tư do những hạn chế về nguồn vốn huy động và ràng buộc bởi cơ chế tài chính của ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước:

- Trước khi cổ phần hóa, nguồn vốn dành cho đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh được lấy từ nguồn vốn trích từ lợi nhuận để lại và các quỹ (quỹ đầu tư phát triển, quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi, quỹ nghiên cứu phát triển). Tuy nhiên, tùy thuộc vào quan điểm của lãnh đạo ngân hàng và khống chế của tỷ lệ trích lợi nhuận để lại, huy động vốn cho đầu tư tại VCB thời gian này không có quy mô lớn.

- Ngoài ra, nguồn vốn hỗ trợ của ngân hàng Thế giới (WB) trong dự án tái cơ cấu ngân hàng những năm 2000 và phát hành trái phiếu chuyển đổi năm 2005 cũng không bổ sung nhiều vốn cho đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh;

- Sau khi cổ phần hóa, nguồn vốn từ phát hành cổ phiếu, thặng dư vốn cũng chưa được phân bổ hiệu quả cho đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh do ngân hàng cũng đang phải cân đối vốn vào những mục tiêu cấp bách nhằm nâng cao chất lượng tài sản có (xử lý nợ xấu), cải thiện năng lực tài chính. Mặc dù cổ phần hóa diễn ra từ cuối năm 2007 nhưng tiến trình tìm kiếm đối tác chiến lược kép dài cho tới cuối năm 2011 đã cản trở VCB trong việc huy động thêm nguồn vốn ổn định, chất lượng cho hoạt động đầu tư;

- Không chỉ hạn chế về nguồn, những ràng buộc của cơ chế tài chính áp dụng cho ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước cũng ảnh hưởng tới quy mô và tiến độ huy động vốn của VCB.

Thứ hai, thiếu kinh nghiệm và chiến lược đầu tư

Với vai trò là ngân hàng đi tiên phong, VCB phải tiến hành nhiều hoạt động mà chưa có tiền lệ, chưa có bài học tại Việt Nam khi cổ phẩn hóa và hội nhập. Những hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của VCB do đó cũng gặp phải những khó khăn nhất định trong việc định hướng, lựa chọn đối tượng đầu tư.


Đội ngũ lãnh đạo ngân hàng VCB mặc dù là những người sớm nhìn nhận ra xu hướng phát triển của thị trường tài chính và rất sáng suốt, quyết liệt khi tập trung đầu tư nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh cho VCB nhưng hầu hết chưa có kinh nghiệm quản trị một ngân hàng cổ phần hiện đại theo chuẩn mực quốc tế. Đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của VCB do đó chưa thực sự mang tầm chiến lược.

Thiếu kinh nghiệm và sự tư vấn cho chiến lược bao quát, dài hạn khiến cho hoạt động đầu tư manh mún, không đồng bộ, không mang lại hiệu quả mong muốn. Đặc biệt, công nghệ nếu không mang tầm chiến lược sẽ nhanh chóng trở nên lạc hậu, gây lãng phí đầu tư. Đó cũng là nguyên nhân gây ra sự mất cân đối trong cơ cấu đầu tư.

Thứ ba, ảnh hưởng của cơ chế ngân hàng nhà nước trong nhiều năm

Trước khi chuyển đổi sang cơ chế của một ngân hàng thương mại cổ phần vào tháng 6 năm 2008, VCB vẫn là một ngân hàng quốc doanh, sau cổ phần hóa, Nhà nước vẫn chiếm trên 70% cổ phần, do đó VCB không tránh khỏi những hạn chế của mô hình hoạt động cũ. Chính sách đầu tư phải tuân theo những cơ chế, quy định của nhà nước. Điều này khiến cho ngân hàng khó chủ động trong việc phân bổ các chi phí đầu tư cũng như tiếp cận các cơ hội đầu tư một cách kịp thời.

Thứ tư, công tác tổ chức thiếu chuyên nghiệp và nhân sự quản lý đầu tư chưa được đào tạo bài bản

Nguyên nhân khiến cho hoạt động quản lý đầu tư tại VCB chưa được đánh giá cao là do công tác tổ chức và trình độ của đội ngũ cán bộ trực tiếp quản lý các hoạt động đầu tư.

Việc tiến hành các hoạt động đầu tư tại VCB không phải do một bộ phận tập trung, chuyên trách đảm nhiệm mà do nhiều bộ phận liên quan cùng phối hợp thực hiện, bao gồm: bộ phận phân tích chiến lược, kế toán tài chính, đầu tư xây dựng cơ bản, trung tâm tin học, quản trị và các phòng ban chuyên môn khác tùy từng hoạt động đầu tư. Sự thiếu tập trung, thiếu bộ phận chuyên trách khiến cho việc phân định trách nhiệm trong quản lý đầu tư không rõ ràng, phối hợp chồng chéo, kém hiệu quả, nhiều cán bộ vừa phải kiêm nhiệm công việc chuyên môn, vừa phải tham


gia quản lý hoạt động đầu tư. Bên cạnh đó, vì không chuyên trách nên đội ngũ cán bộ cũng thiếu sự đào tạo cần thiết về kỹ năng, kiến thức quản lý đầu tư.

(2) Nguyên nhân khách quan:

Thứ nhất, thiếu sự hỗ trợ của các cơ quan quản lý nhà nước

Sự hỗ trợ của các cơ quan quản lý nhà nước chưa đầy đủ và chưa đáp ứng được mong đợi của các ngân hàng thương mại nói chung, VCB nói riêng. Hỗ trợ trong việc định hướng, trong việc tạo điều kiện cho ngân hàng tiếp cận các cơ hội đầu tư, các đối tác cung cấp công nghệ cũng như những hỗ trợ về mặt tài chính trong hoạt động đầu tư công nghệ, hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực,…còn chưa thiết thực và đồng bộ.

Thứ hai, cơ sở pháp lý chưa đầy đủ

Cơ sở pháp lý luôn được xem như biện pháp đảm bảo an toàn cho các hoạt động kinh doanh, hoạt động đầu tư của ngân hàng. Tuy nhiên có một số lĩnh vực cơ sở pháp lý chưa đầy đủ, hoàn thiện như lĩnh vực thẻ, ngân hàng điện tử, đầu tư mở rộng lĩnh vực kinh doanh, góp vốn,....khiến cho hoạt động đầu tư của VCB gặp phải những khó khăn, vướng mắc nhất định.

Thứ ba, tuân thủ những chính sách chung của Ngân hàng Nhà nước

Nhằm đáp ứng các mục tiêu kinh tế xã hội chung, Nhà nước có một số chính sách bắt buộc các ngân hàng phải tuân thủ như việc chưa được tiến hành hoặc khống chế tỷ lệ thu phí một số dịch vụ thẻ. Điều này dẫn đến việc ngân hàng khó cân đối giữa thu chi, không chủ động được về chính sách giá cả cho dịch vụ và không có động lực để cải tiến chất lượng dịch vụ, nâng cao năng lực cạnh tranh.

Thứ tư, áp lực cạnh tranh do mở cửa thị trường tài chính

Mở cửa thị trường tài chính đã tạo ra áp lực cạnh tranh ngày càng lớn và đặt ra những đòi hỏi ngày càng cao cho hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh. Nhiều ngân hàng, tổ chức tài chính cùng cung cấp một danh mục đa dạng các sản phẩm với nhiều phương thức cạnh tranh tinh vi. Đặc biệt, các ngân hàng nước ngoài có thế mạnh về công nghệ và sản phẩm với tính năng nổi trội đặt ra những áp lực cạnh tranh không nhỏ với VCB. Hoạt động đầu tư của VCB do đó phải đáp ứng


nhiều yêu cầu hơn, đứng trước nhiều lựa chọn hơn trong khi các ngân hàng khác đều có những chiến lược đầu tư nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh cho mình.

Thứ năm, mặt bằng trình độ công nghệ trong nước còn thấp

Sự chênh lệch giữa hạ tầng của ngân hàng với hạ tầng chung cũng khiến cho việc đầu tư phát triển công nghệ ngân hàng gặp khó khăn, phát sinh nhiều chi phí đầu tư đi kèm, tốn kém và không hiệu quả.

Mặt bằng trình độ công nghệ trong nước còn thấp cũng khiến cho hoạt động đầu tư nâng cao trình độ công nghệ của ngân hàng lệ thuộc vào đối tác cung cấp công nghệ, máy móc thiết bị, đặc biệt là đối tác nước ngoài.


CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG ĐẦU TƯ NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM

3.1. Xu thế phát triển của thị trường tài chính Việt Nam và định hướng của Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam

3.1.1. Xu thế phát triển của thị trường tài chính Việt Nam


Thị trường tài chính Việt Nam trong những năm tới phát triển theo chiều sâu, không mở rộng về số lượng nhưng cạnh tranh tiếp tục diễn ra gay gắt giữa các ngân hàng thực sự có tiềm lực. Trong xu thế phát triển đó xuất hiện những nhân tố thuận lợi và cả thách thức đối với năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại.

(1) Các xu thế thuận lợi:

(i) Thị trường tài chính phát triển trong môi trường vĩ mô ổn định, cơ sở hạ tầng, công nghệ ngày càng phát triển

Môi trường vĩ mô ổn định tạo những điều kiện cần cho sự phát triển bền vững của hệ thống ngân hàng. Việt Nam được đánh giá là có sự ổn định về chính trị, xã hội, môi trường kinh doanh. Sau khủng hoảng, kinh tế cũng dần đi vào ổn định với sự thay đổi cơ cấu theo hướng phù hợp với thị trường và mang tính dài hạn. Cơ sở hạ tầng, khoa học công nghệ phát triển tạo ra các yếu tố đồng bộ cho cả đầu vào, đầu ra của hệ thống ngân hàng. Việt Nam trong những năm tới vẫn tiếp tục hoàn thiện cơ sở hạ tầng, chú trọng nâng cao trình độ khoa học công nghệ và điều này đã có những tác động tích cực đến sự phát triển của hệ thống ngân hàng: giao dịch được xử lý ngày càng nhanh hơn, chuẩn xác hơn, không giới hạn bởi thời gian, không gian, các sản phẩm ngân hàng ngày càng phù hợp, đáp ứng được nhu cầu của khách hàng thuộc nhiều ngành nghề, lĩnh vực,…

(ii) Thị trường mở rộng

Nền kinh tế Việt Nam thời gian qua luôn đạt mức tăng trưởng cao và có tiềm năng duy trì tốc độ này ở các năm tiếp theo, đứng vị trí thứ 3 tại châu Á về tốc độ tăng trưởng GDP (sau Trung Quốc, Ấn Độ). Việt Nam được đánh giá là quốc gia có


dân số trẻ, tuy nhiên mới chỉ có khoảng 15 triệu người (tương đương 12% dân số) hiện đang sở hữu một tài khoản tại ngân hàng. Số lượng các doanh nghiệp, đơn vị kinh doanh phát triển với nhu cầu ngày càng cao đối với các giải pháp tài chính. Điều này mang lại cho các NHTM cơ hội khai thác thị trường tiềm năng rộng lớn.

Dịch vụ tài chính ngân hàng thời gian qua phát triển với tốc độ nhanh chóng cho thấy nhu cầu sử dụng dịch vụ ngân hàng là tất yếu. Số liệu thống kê từ Ngân hàng Nhà nước cho thấy tỉ lệ tăng trưởng các sản phẩm thẻ ngân hàng đạt từ 50- 200% trong vòng năm năm từ 2006 đến 2010. Hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng ghi nhận 83 ngân hàng đang hoạt động đã phát hành khoảng 27 triệu thẻ thanh toán, sử dụng trong hệ thống hơn 11.000 ATM cùng 42.000 điểm chấp nhận thanh toán bằng thẻ.

Hơn 24 triệu người Việt Nam có sử dụng Internet và ngành ngân hàng có thể tận dụng lợi thế này để mang lại những tiện ích cho khách hàng từ những sản phẩm hiện đại trên nền tảng công nghệ trực tuyến. Ước tính khoảng 50% tiết kiệm cá nhân được giữ ngoài hệ thống ngân hàng chính thống dưới dạng vàng, tiền mặt và các tài sản khác.

Trong những năm tới, nền kinh tế Việt Nam tiếp tục chuyển đổi từ nền kinh tế tiền mặt sang hệ thống tài chính chính thống, tỷ lệ thâm nhập dịch vụ tài chính dự kiến sẽ có tốc độ tăng trưởng mạnh mẽ. Cụ thể, cuối năm 2006, Chính phủ đã phê duyệt đề án “Thanh toán không dùng tiền mặt” và hiện đang được triển khai ở quy mô lớn. Mục tiêu của đề án là đến năm 2020, tỷ lệ tiền mặt trên tổng phương tiện thanh toán chỉ còn 15%, số lượng tài khoản cá nhân đạt 45 triệu, hơn 90% người lao động lĩnh lương qua tài khoản và 95% khoản thanh toán giữa các doanh nghiệp được thực hiện qua ngân hàng. Trước đây, với 73% dân số sinh sống ở nông thôn và các vùng miền xa, việc dân cư tiếp cận với dịch vụ ngân hàng còn hạn chế. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, Việt Nam trải qua thời kỳ tốc độ đô thị hóa nhanh chóng với tỷ lệ tăng dân số thành thị là 3,6%/năm giai đoạn 2002-2005, làm tăng nhu cầu sử dụng các dịch vụ ngân hàng, đặc biệt là các dịch vụ cá nhân. Hiện nay, 60% dân số Việt Nam đang ở độ tuổi dưới 30 và có tới 25% đang sống ở thành thị, họ cởi mở với các sản phẩm tài chính và lưu giữ tài sản trong tài khoản cá nhân


ngân hàng. Lực lượng này sẽ chi phối thị trường cũng như thúc đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế trong những năm tới đây.

(iii) Cơ hội từ hội nhập kinh tế quốc tế

Với chủ trương mở rộng hợp tác quốc tế, Việt Nam ngày càng hội nhập sâu hơn vào các lĩnh vực kinh tế, trong đó có cả ngân hàng tài chính. Đặc biệt, sau khi Việt Nam chính thức là thành viên của WTO, việc mở cửa trong lĩnh vực ngân hàng đã sâu rộng hơn nhiều so với trước đây do Việt Nam phải thực hiện các cam kết trong quá trình hội nhập. Về tổng thể, các cam kết gia nhập WTO của Việt Nam trong lĩnh vực ngân hàng đã cho phép các TCTD nước ngoài được hiện diện ở Việt Nam dưới nhiều hình thức khác nhau, mở rộng phạm vi và loại hình cung cấp các dịch vụ, tạo ra một sân chơi bình đẳng cho các ngân hàng.

Có thể thấy, khi những rào cản đối với các ngân hàng nước ngoài được tháo bỏ sẽ mở ra một sân chơi lành mạnh hơn cho các ngân hàng. Các ngân hàng nước ngoài sẽ được phát triển tự do hơn trong khi các ngân hàng nội sẽ không ngừng cải tiến sản phẩm và nâng cao dịch vụ của mình để cùng cạnh tranh. Đây cũng được coi như “cú hích” về cạnh tranh để các ngân hàng thương mại Việt Nam đi lên. Những ngân hàng nào chưa có sự chuẩn bị kỹ và năng lực cạnh tranh còn yếu kém sẽ bị đào thải. Thị trường sẽ sàng lọc và những ngân hàng nào quản trị tốt, năng lực cạnh tranh cao sẽ tồn tại và phát triển mạnh.

Cạnh tranh giữa các ngân hàng sẽ thúc đẩy hiệu quả không chỉ trong huy động, phân bổ các nguồn vốn mà còn hiệu quả kinh doanh của mỗi ngân hàng. Khả năng cạnh tranh của các ngân hàng sẽ được nâng cao bởi cơ hội liên kết hợp tác với nước ngoài trong chuyển giao công nghệ, phát triển sản phẩm và khai thác thị trường.

Hội nhập quốc tế tạo ra nhiều cơ hội kinh doanh do mở rộng khả năng tiếp cận của các ngân hàng đối với các khu vực thị trường mới, các nhóm khách hàng có mức độ rủi ro thấp. Các ngân hàng nội sẽ có thêm cơ hội học hỏi kinh nghiệm, nâng cao trình độ công nghệ và quản trị ngân hàng, đồng thời các ngân hàng trong nước


còn có khả năng huy động các nguồn vốn từ thị trường tài chính quốc tế và sử dụng vốn có hiệu quả hơn để giảm thiểu rủi ro và các chi phí cơ hội.

Hội nhập kinh tế cũng góp phần thúc đẩy quá trình thu hút nguồn vốn đầu tư, tạo điều kiện giúp các NHTM phát triển các mối quan hệ đại lý, thanh toán quốc tế, tài trợ thương mại, hợp tác đầu tư và trao đổi công nghệ... Hơn nữa, việc Việt Nam gia nhập WTO cũng thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước chủ động trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh, mở rộng thị trường để tồn tại và phát triển, không chỉ ở trong nước mà còn mở rộng hoạt động ra nước ngoài. Các doanh nghiệp phát triển tốt tạo điều kiện cho ngân hàng duy trì và phát triển cơ sở khách hàng tốt, tài chính lành mạnh. Ngoài ra, việc mở cửa thị trường dịch vụ ngân hàng sẽ thúc đẩy NHNN nâng cao năng lực và hiệu quả điều hành, thực thi chính sách tiền tệ, chia sẻ thông tin với các ngân hàng trung ương khác, góp phần hỗ trợ tích cực cho hoạt động của các NHTM.

(iv) Hệ thống thể chế về tiền tệ và hoạt động ngân hàng đang được tập trung hoàn thiện

Từ 1-1-2011, Luật Các Tổ chức tín dụng (sửa đổi) và Luật Ngân hàng Nhà nước bắt đầu có hiệu lực. Trong đó, thẩm quyền và tính tự chủ của NHNN trong việc chủ động, linh hoạt sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ đã được xác định rõ ràng. Luật NHNN sửa đổi cũng xác định rõ thẩm quyền của NHNN trong việc giám sát an toàn hoạt động của các TCTD thông qua hai hoạt động giám sát và thanh tra, cùng với việc thành lập cơ quan Thanh tra giám sát ngân hàng thuộc NHNN nhằm đảm bảo sự quản lý chặt chẽ hơn đối với hệ thống TCTD và an toàn hệ thống ngân hàng, có khả năng chống đỡ kịp thời những biến động kinh tế khó lường từ bên ngoài trong xu thế toàn cầu hóa.

Luật các TCTD mới đã có nhiều qui định nhằm nâng cao mức độ an toàn trong hoạt động của TCTD trên cơ sở quán triệt quan điểm: TCTD là doanh nghiệp đặc biệt, cần được quản lý một cách đặc biệt và tiếp cận sát với thông lệ quốc tế về các yêu cầu bảo đảm an toàn trong hoạt động ngân hàng.


Sau khi ban hành Luật các TCTD mới, các văn bản pháp lý về hoạt động ngân hàng cũng được xem xét để điều chỉnh, các qui định an toàn đối với các TCTD được điều chỉnh theo hướng phù hợp dần với các nguyên tắc và chuẩn mực quốc tế, nổi bật là Thông tư số 13/2010/TT-NHNN ngày 20/5/2010 và Thông tư số 19/2010/TT-NHNN ngày 27/9/2010 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 13. Điểm quan trọng trong Thông tư 13 này là nâng tỉ lệ an toàn vốn tối thiểu giữa vốn tự có so với tổng tài sản “có” rủi ro từ 8% (theo quyết định 457/2005/QĐ-NHNN) lên 9%. Thông tư này có vai trò hết sức quan trọng trong việc tăng cường tính an toàn trong hoạt động của các TCTD nói riêng và hệ thống ngân hàng Việt Nam nói chung, tiến gần tới các thông lệ và tiêu chuẩn của quốc tế.

Bên cạnh đó, kịp thời đáp ứng xu thế phát triển, NHNN phối hợp với các cơ quan liên quan ban hành nhiều chính sách, quy định tạo hành lang pháp lý cho các hoạt động mới của NHTM như các quy định liên quan đến giao dịch điện tử, phân phối bảo hiểm qua hệ thống ngân hàng, đầu tư mở rộng lĩnh vực hoạt động,… tạo thuận lợi cho các ngân hàng trong quá trình cung ứng các sản phảm phù hợp với sự phát triển ngày càng cao của thị trường.

Hệ thống chính sách pháp luật về tiền tệ, ngân hàng được cải tiến tạo một hành lang pháp lý an toàn cho hoạt động của các NHTM, định hướng phát triển và thúc đẩy các NHTM nhanh chóng tiến tới các chuẩn mực của ngân hàng quốc tế.

(v) Cổ phần hóa tiếp tục phát huy các lợi thế, mang lại sự thay đổi thực chất, có chiều sâu cho các ngân hàng thương mại Nhà nước

Quá trình cổ phần hóa các ngân hàng thương mại Nhà nước đang tiếp tục được thúc đẩy nhanh chóng. Cùng với việc chuyển đổi cơ cấu thành phần sở hữu, cổ phần hóa mang lại cho các ngân hàng này – vốn là các ngân hàng đầu tầu – sự tự chủ nhất định, cơ hội huy động các nguồn lực hiệu quả từ các cổ đông chiến lược.

(2) Xu thế tạo ra các khó khăn cho các NHTM trong nước

(i) Áp lực cạnh tranh ngày càng gay gắt trong điều kiện hội nhập

Chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế cùng với việc thực hiện những cam kết khi gia nhập WTO, Việt Nam mở cửa thị trường tài chính và nới lỏng các rào cản

Xem tất cả 116 trang.

Ngày đăng: 21/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí