Đánh giá tính an toàn và tác dụng trên các thông số lipid máu của cao chiết từ lá cây Chè vằng Jasminum subtriplinerve Blume Oleaceae trên thực nghiệm - 2

MỞ ĐẦU


Rối loạn lipid máu là yếu tố quan trọng cho việc hình thành và phát triển của bệnh xơ vữa động mạch, bệnh động mạch vành, động mạch não... Xơ vữa động mạch gây ra nhiều biến chứng nghiêm trọng, đe dọa tính mạng như: tăng huyết áp, nhồi máu cơ tim, tai biến mạch máu não...[13, 18, 19]. Rối loạn lipid máu chiếm tỷ lệ rất cao ở bệnh nhân cao tuổi tăng huyết áp, đặc biệt ở những bệnh nhân có các yếu tố nguy cơ tim mạch khác đi kèm như thừa cân, béo phì, uống nhiều rượu và ít vận động thể lực, theo tạp chí Y học Việt Nam (2022) thì tỷ lệ rối loạn lipid máu ở bệnh nhân cao tuổi tăng huyết áp là 88,0% [27]. Y học hiện đại đã áp dụng nhiều biện pháp để điều trị RLLPM: chế độ ăn uống, sinh hoạt điều độ, rèn luyện thể lực và dùng thuốc. Có nhiều nhóm thuốc có tác dụng điều chỉnh RLLPM như các dẫn xuất statin, nhóm fibrat, acid nicotinic, các chất gắn acid mật... Các thuốc trên đều đạt hiệu quả điều trị tốt nhưng có nhiều tác dụng không mong muốn như gây rối loạn tiêu hóa, đau đầu, chóng mặt, mất ngủ, suy giảm nhận thức, phản ứng ngoài da…, đặc biệt là gây tăng enzym gan, viêm cơ, tiêu cơ vân và có một tỷ lệ gây đột biến ảnh hưởng đến quá trình phát triển thai nhi [4, 29, 34]. Bên cạnh đó, chi phí điều trị bằng các thuốc này còn khá cao, trong khi bệnh thường phải điều trị dài ngày. Vì thế, một trong những xu hướng hiện nay là hướng về các thuốc có nguồn gốc tự nhiên, vừa mang lại hiệu quả điều trị, vừa hạn chế các tác dụng không mong muốn và giảm chi phí điều trị cho người bệnh [22].

Việt Nam là một nước có nguồn gốc dược liệu tự nhiên vô cùng phong phú với trên 5000 loài thực vật và nấm, 408 loài động vật, 75 loại khoáng vật được dùng làm thuốc và 200 loài có tiềm năng khai thác và phát triển để trồng. Nhiều loài được xếp vào loại quý hiếm trên thế giới như: Sâm Ngọc Linh, thông đỏ, bách hợp… Chè vằng (Jasminum subtriplinerve Blume Oleaceae) từ lâu đã được ông cha ta dùng chữa viêm loét ngoài da, thông kinh, hoạt huyệt, chữa viêm tuyến sữa, trị thiếu máu, bổ gan, thải độc, ổn định huyết áp, kích thích tiêu hoá, ngủ ngon giấc, chống oxi hoá. Tuy nhiên chưa có nhiều nghiên cứu về lá chè vằng để khai thác hết hiệu quả điều trị từ cao chiết này. Để có cơ sở khoa học giúp khai thác hết tiềm năng của chè vằng và lấy đó làm căn cứ cho việc sử dụng thuốc trên lâm sàng, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “đánh

giá tính an toàn và tác dụng trên các thông số lipid máu của cao chiết từ lá cây chè vằng (Jasminum subtriplinerve Blume Oleaceae) trên thực nghiệm” với hai mục tiêu như sau:

1. Đánh giá độc tính bán trường diễn của cao chiết lá chè vằng (Jasminum subtriplinerve Blume Oleaceae) trên động vật thực nghiệm.

2. Đánh giá tác dụng trên các thông số lipid máu của cao chiết lá cây chè vằng (Jasminum subtriplinerve Blume Oleaceae) trên chuột nhắt trắng.

Chương 1 - TỔNG QUAN

1.1. SINH LÝ HỌC LIPID MÁU

1.1.1. Lipid, cấu tạo của lipid

Lipid là thành phần quan trọng của màng tế bào. Lipid không tan trong nước nên để tuần hoàn được trong huyết tương và hệ bạch huyết, chúng phải kết hợp với protein đặc hiệu tạo thành phức hợp lipoprotein (LP) [2, 10]. Lipid là những sản phẩm ngưng tụ của các acid béo với alcol. Ngoài ra, lipid là danh từ chỉ dùng cho acid béo, cholesterol tự do và cholesterol este.

Trong cơ thể, lipid tồn tại dưới 3 dạng:

+ Cấu trúc: có trong tất cả các mô, tham gia cấu tạo màng tế bào, thành phần là các loại lipid phức tạp, phổ biến là phospholipid.

+ Dự trữ: tạo nên lớp mỡ dưới da thành phần chủ yếu là triglycerid (TG).

+ Lưu hành: gồm phospholipid (PL), triglycerid (TG), cholesterol tự do (FC), cholesterol este (CE) và acid béo tự do.

1.1.2. Thành phần của lipoprotein

Lipoprotein là những phân tử hình cầu gồm 2 phần: nhân và vỏ [1, 10]. Phần vỏ được cấu tạo bởi các phân tử lipid phân cực gồm phospholipid, cholesterol tự do và các apoprotein. Phần vỏ đảm bảo tính tan của LP trong huyết tương, có tác dụng vận chuyển các lipid không tan. Phần nhân: chứa triglycerid và cholesterol este hoá không phân cực.

1.1.3. Phân loại lipoprotein

Dựa vào tỷ trọng, lipoprotein được chia thành 5 loại, lipoprotein có hàm lượng lipid càng cao thì tỷ trọng càng thấp. Bao gồm: Chylomicron (CM), VLDL (lipoprotein tỷ trọng rất thấp), LDL (lipoprotein tỷ trọng thấp), IDL (lipoprotein tỷ trọng trung bình), HDL (lipoprotein tỷ trọng cao).

Bảng 1.1: Phân loại và đặc điểm của các lipoprotein huyết tương


Lipoprotein

Tỷ trọng (g/ml)

Đường kính trung bình (nm)

CM

< 0,950

500

Nguồn gốc: Ruột

Chức năng: Vận chuyển triglycerid ngoại sinh

VLDL

0,960 – 1,006

43

Nguồn gốc: Gan

Chức năng: Vận chuyển triglycerid nội sinh

IDL

1,007 – 1,019

27

Nguồn gốc: Sản phẩm chuyển hóa của VLDL Chức năng: Tiền chất của LDL

LDL

1,020 – 1,063

22

Nguồn gốc: Sản phẩm chuyển hóa VLDL qua IDL

Chức năng: Vận chuyển cholesterol từ gan đến mô ngoại vi

HDL

1,064 – 1,210

8

Nguồn gốc: Gan, ruột

Chức năng: Vận chuyển cholesterol trở về gan

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 64 trang tài liệu này.

(Wiliam J.Marshall, Clinical chemistry, Fourth Edition, Mosby 2000)

Các thành phần trên được mô tả như sau:

+ Chylomicron (CM): Đây là loại lipoprotein với hàm lượng lipid cao nhất, vì vậy tỷ trọng của nó là nhỏ nhất. ApoB-48, apoE và apoC-II là các apoprotein chủ yếu của loại lipoprotein này. CM chỉ có mặt trong huyết tương một thời gian ngắn (khoảng vài giờ) sau bữa ăn giàu lipid, nhiệm vụ vận chuyển triglycerid trong thức ăn từ ruột tới gan. Loại này do thời gian tồn tại ít nên không gây nên các rối loạn trong cơ thể dù nhiều hay ít [21].

+ Lipoprotein tỷ trọng rất thấp (VLDL): Loại Lipoprotein này được tổng hợp tại gan, có tác dụng vận chuyển trigycerid nội sinh vào hệ tuần hoàn. Apoprotein của VLDL bao gồm ApoB-100, ApoC-I, ApoC-II và apoE. VLDL

được vận chuyển từ gan đến mô mỡ, hoạt hóa enzym lipoprotein lipase, xúc tác thủy phân trigycerid, giải phóng acid béo [21].

+ Lipoprotein tỷ trọng thấp (LDL): Là sản phẩm thoái hóa của VLDL trong máu, giàu cholesterol và cholesterol ester. Apoprotein của LDL là ApoB-

100. LDL có vai trò vận chuyển cholesterol đến các mô. Cholesterol trong LDL được coi là cholesterol xấu vì nó tham gia vào sự hình thành và phát triển các mảng xơ vữa động mạch, gây nên các bệnh tim mạch nguy hiểm [21].

+ Lipoprotein tỷ trọng trung gian (IDL): IDL chính là dạng chuyển hóa trung gian giữa LDL và VLDL. VLDL sau khi giải phóng trigycerid, nhận thêm cholesterol ester và mất đi ApoC sẽ chuyển thành IDL, sau đó nhanh chóng bị thoái hóa thành LDL [21].

+ Lipoprotein tỷ trọng cao (HDL): HDL được tạo thành ở gan và ruột non, nó giàu protein, hàm lượng lipid thấp. HDL có vai trò vận chuyển cholesterol ở các mô ngoại vi về gan để thoái hóa thành acid mật. Cholesterol của HDL được xem là cholesterol tốt vì chúng giúp bảo vệ thành mạch, giảm nguy cơ xơ vữa. Một số nghiên cứu cho rằng, HDL giúp loại trừ các mảng xơ vữa, hạn chế các mảng xơ vữa này phát triển. HDL cao giúp giảm nguy cơ mắc các bệnh lý về tim mạch, ngược lại, khi HDL thấp thì khả năng mắc bệnh sẽ tăng lên [21, 33].

1.1.4. Chuyển hóa lipoprotein

Trong cơ thể, lipoprotein được tổng hợp theo 2 con đường: con đường ngoại sinh và con đường nội sinh [8].

+ Con đường ngoại sinh: liên quan đến lipid do thức ăn đưa vào, sau khi ăn thức ăn giàu chất béo, triglycerid và cholesterol được hấp thu vào tế bào ruột dưới dạng acid béo và cholesterol tự do rồi được tái este hóa, sáp nhập và vận chuyển bởi phân tử chylomicron theo mạch bạch huyết vào tuần hoàn. Trong máu, lipoprotein lipase thủy phân triglycerid của chylomicron thành acid béo cung cấp cho mô, phần còn lại là chylomicron tồn dư bị gan thâu tóm.

+ Con đường nội sinh: liên quan đến lipid được tổng hợp tại gan: VLDL được tổng hợp ở gan, vận chuyển trong máu phần triglycerid bị thủy phân bởi lipoprotein lipase tạo acid béo cung cấp cho mô, phần còn lại là VLDL tồn dư

hay IDL. Khoảng một nửa IDL được chuyển hóa ở gan, phần còn lại tiếp tục bị thủy phân phần triglycerid thành acid béo cho mô, trở thành LDL. LDL bị thâu tóm bởi tương tác với receptor LDL màng tế bào, cung cấp cholesterol cho mô.

Ba enzym vận chuyển ngược cholesterol: cholesterol-estertransfer- protein (CETP), lecithin-cholesterol-acyltransferase (LCAT), và hepatic lipase cùng với HDL-C chịu trách nhiệm vận chuyển cholesterol dư thừa từ mô ngoại vi về gan thải trừ vào mật. Tại huyết tương, HDL-C gắn và hoạt hóa đặc hiệu LCAT, ester hóa cholesterol tự do ở bề mặt, cholesterol este được chuyển vào lõi HDL mới sinh ra tạo HDL mới. Tiếp đó, enzym CETP trung gian vận chuyển một triglycerid của LDL, VLDL hoặc chylomicron để trao đổi một cholesterol este với HDL. Cuối cùng, enzym hepatic lipase tạo ra IDL từ LDL và biến đổi HDL2 thành HDL3 trở về gan. Vì vậy cholesterol của HDL-C được coi là cơ chế chống xơ vữa động mạch quan trọng nhất.


Hình 1 1 Chuyển hóa lipid trong cơ thể Ở người bình thường quá trình tổng hợp 1

Hình 1.1: Chuyển hóa lipid trong cơ thể

Ở người bình thường, quá trình tổng hợp và thoái hóa lipid được điều hòa bởi nhiều cơ chế và phụ thuộc vào nhu cầu cơ thể, nhờ đó mà duy trì được sự ổn định hàm lượng lipid và lipoprotein trong máu. Khi có sự bất thường, sẽ dẫn đến hội chứng rối loạn lipoprotein hay được gọi là rối loạn lipid máu.

1.2. SINH LÝ BỆNH RỐI LOẠN LIPID MÁU

Nguyên nhân và phân loại rối loạn lipid máu

Bình thường: Lipid toàn phần trong máu ổn định trong khoảng 600-800 mg/dl, là nhờ sự cân bằng giữa cung cấp (hấp thu, tổng hợp) và tiêu thụ. Tăng lipid máu có thể gặp sau bữa ăn, do sự huy động của tuyến yên, tuyến giáp hay thượng thận hay sự giảm sử dụng và chuyển hóa làm gan giảm sản xuất chất vận chuyển mỡ (apoprotein). Tăng lipid máu trong một thời gian ngắn không gây hậu quả gì đáng kể, nhưng nếu tăng kéo dài thì dẫn đến một số hậu quả: béo phì, suy giảm chức năng một số cơ quan (gan), tăng cholesterol gây xơ vữa động mạch [9].

Nguyên nhân gây rối loạn lipid máu có thể là nguyên phát (do các bệnh về gen) hoặc thứ phát (do thói quen ăn uống, sinh hoạt hoặc một số bệnh lý). Các nguyên nhân thứ phát có thể góp phần làm rối loạn lipid máu do nguyên nhân tiên phát biểu hiện ra hoặc nặng nề hơn, ví dụ rối loạn lipid máu hỗn hợp mang tính gia đình có thể chỉ biểu hiện ra khi có sự tham gia có ý nghĩa của các nguyên nhân thứ phát [8].

Nguyên nhân nguyên phát:

Rối loạn lipid máu nguyên phát do đột biến gen làm tăng tổng hợp quá mức cholesterol (TC), triglycerid (TG), LDL-C hoặc giảm thanh thải TC, TG, LDL-C hoặc giảm tổng hợp HDL-C hoặc tăng thanh thải HDL-C. Rối loạn lipid máu thường xảy ra sớm ở trẻ em và người trẻ tuổi, ít khi kèm thể trạng béo phì, gồm các trường hợp sau:

+ Tăng glycerid nguyên phát: là bệnh cảnh di truyền theo gen lặn, biểu hiện lâm sàng thường người bệnh không bị béo phì, có gan lách lớn, cường lách, thiếu máu giảm tiểu cầu, nhồi máu lách, viêm tụy cấp gây đau bụng.

+ Tăng lipid máu hỗn hợp: là bệnh cảnh di truyền, trong gia đình có nhiều người cùng mắc bệnh. Tăng lipid máu hỗn hợp có thể do tăng tổng hợp hoặc giảm thoái biến các lipoprotein. Lâm sàng thường béo phì, ban vàng, kháng insulin, đái tháo đường tuyp 2, tăng acid uric máu [5].

Rối loạn lipid máu thứ phát

Nguyên nhân của rối loạn lipid máu do lối sống tĩnh tại, dùng nhiều bia rượu, thức ăn giàu chất béo bão hòa. Các nguyên nhân thứ phát khác của rối loạn lipid máu như đái tháo đường, bệnh thận mạn tính, suy giáp, xơ gan, dùng thuốc thiazid, corticoids, estrogen, chẹn beta giao cảm [5].

Tăng lipid thứ phát:

+ Đái tháo đường: thường tăng triglycerid máu do hoạt tính enzym lipoprotein lipase giảm. Nếu glucose máu được kiểm soát tốt thì triglycerid sẽ giảm sau vài tuần. Tăng TG máu là yếu tố nguy cơ xơ vữa động mạch ở người bệnh đái tháo đường [5].

+ Cường cortisol (Hội chứng Cushing): có tình trạng giảm dị hóa các lipoprotein do giảm hoạt tính enzym lipoprotein lipase. Tình trạng này càng rõ hơn trong trường hợp kèm kháng insulin và đái tháo đường [5].

+ Sử dụng estrogen: ở phụ nữ dùng estrogen thời gian dài, có sự gia tăng TG do tăng tổng tổng hợp VLDL. Trong thai kỳ, nồng độ estrogen tăng cũng làm gia tăng TG gấp 2-3 lần và sẽ trở lại mức bình thường sau sinh khoảng 6 tuần [5].

+ Nghiện rượu: làm rối loạn lipid máu, chủ yếu tăng triglycerid (TG). Đặc biệt, rượu làm tăng đáng kể nồng độ triglycerid máu ở những người tăng sản TG nguyên phát hoặc thứ phát do các nguyên nhân khác. Hội chứng Zieve tăng TC máu, rượu chuyển thành acetat làm giảm sự oxyd hóa các acid béo ở gan nên acid béo tham gia sản xuất TG gây gan nhiễm mỡ và tăng sản xuất VLDL, chức năng gan giảm dẫn đến giảm hoạt tính enzym LCAT (Lecithin cholesterol acyltransferase: enzym ester hóa cholesterol) nên cholesterol ứ đọng trong hồng cầu làm vỡ hồng cầu gây thiếu máu tan huyết [5].

+ Bệnh thận: trong hội chứng thận hư, tăng VLDL và LDL do gan tăng tổng hợp để bù vào lượng protein máu giảm do thải qua nước tiểu. TG tăng do albumin máu giảm nên acid béo tự do gắn với albumin cũng giảm, acid béo tự do gắn vào lipoprotein làm cho sự thủy phân TG của các lipoprotein này cũng giảm [5].

1.2.1. Hậu quả của rối loạn lipid máu

Xem tất cả 64 trang.

Ngày đăng: 16/09/2024