Hàm Lượng Coliform Tại Một Số Mãu Nước Biển Ven Bờ

hàm lượng Coliform cao hơn nhiều lần so với QCVN 10:2008/BTNMT, hàm lượng Coliform dao động từ 7000 - 9000 MNP/ 100 ml, gấp 7 - 9 lần so với quy chuẩn

Hình 1 9 Hàm lượng coliform tại một số mãu nước biển ven bờ 6 Hàm lượng 1

Hình 1.9: Hàm lượng coliform tại một số mãu nước biển ven bờ

6. Hàm lượng dầu mỡ trong nước biển

- Ảnh hưởng của nước thải sản xuất đến hàm lượng đầu mỡ trong môi trường nước vịnh Cửa Lục: nhìn chung, kết quả quan trắc môi trường nước thải của một số cơ sở sản xuất cho thấy, hàm lượng tổng dầu mỡ khoáng đạt QCVN 40:2011/BTNMT đối với nước thải công nghiệp và không có dấu hiệu bị ô nhiễm. Trong 6 vị trí quan trắc, điểm N8 - Nước thải Nhà máy xử lý nước thải Hà Khánh có hàm lượng dầu mỡ cao nhất cũng chỉ đạt mức 0,39 mg/l, sau đó là điểm quan trắc N1- Trạm xử lý nước thải Hà Khẩu với hàm lượng 0,32 mg/l (quý II)

Bảng 1.16: Kết quả quan trắc nước thải một số cơ sở sản xuất xung quanh vịnh Cửa Lục


STT

Vị trí quan trắc

Dầu mỡ (mg/l)

Quý I

Quý II

Quý III

Quý IV

1

N1

0.28

0.2

0.23

0.32

2

N3

0.01

0.02

0.01

0.01

3

N4

0.15

0.21

0.34

0.29

4

N5

0.1

0.21

0.3

0.25

5

N8

0.1

0.21

0.39

0.25

QCVN 40:2011/BTNMT – B


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 106 trang tài liệu này.

(Nguồn: Báo cáo quan trắc môi trường định kỳ)

- Đối với nước biển ven bờ: ¾ số mẫu quan trắc có dấu hiệu bị ô nhiễm. trong đó, điểm quan trắc N10 - Vịnh Cửa Lục - Cầu Bãi cháy có hàm lượng lên đến 0,871 mg/l (quý III/2012), sau đó là cảng Làng Khánh - N9 có hàm lượng dầu vượt quá 3 - 4 lần QCVN 10:2008/BTNMT.

Hình 1 10 Hàm lượng dầu mỡ trong một số mẫu nước biển ven bờ Tóm lại 2

Hình 1.10: Hàm lượng dầu mỡ trong một số mẫu nước biển ven bờ

Tóm lại, các kết quả quan trắc cho thấy, tại các điểm quan trắc đều có giá trị pH, COD, As, Cd nằm trong giới hạn cho phép theo QCVN; không có dấu hiệu bị ô nhiễm. Đối với nước thải công nghiệp: tại điểm N5 – Khu giết mổ gia súc, gia cầm tập trung phường Hà Khánh có dấu hiệu bị ô nhiễm Pb, Coliform. Đối với nước

biển ven bờ: Tại điểm N9 – Nước biển ven bờ cảng Làng Khánh có hàm lượng TSS, Pb, Mn, Coliform, dầu mỡ vượt GHCP; Tại điểm N7- Giữa kênh thoát nước của Hà Khánh và hệ thống xuất hàng của nhà máy Xi măng Hạ Long: có hàm lượng TSS, Pb, Mn vượt GHCP; Điểm N2 – Nước qua cầu K67 Cao Xanh hàm lượng Pb, Fe, dầu mỡ vượt GHCP; Điểm N10 – Cầu Bãi Cháy hàm lượng dầu mỡ vượt GHCP

CHƯƠNG 2. ĐỊA ĐIỂM, THỜI GIAN, PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU


2.1. Phân tích địa điểm, vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên ảnh hưởng đến ô nhiễm môi trường nước vịnh Cửa Lục.

2.1.1. Địa điểm, vị trí địa lý

Vịnh Cửa Lục nằm ở phía Bắc thành phố Hạ Long, bao chiếm vị trí thấp nhất, ngập nước thường xuyên của lưu vực vịnh Cửa Lục. Phía Bắc, Vịnh Cửa Lục giáp xã Thống Nhất, xã Lê Lợi, huyện Hoành Bồ; phía Tây giáp phường Hà Khẩu, Giếng Đáy, Việt Hưng, thành phố Hạ Long; phía Đông giáp phường Hà Khánh, Cao Xanh thành phố Hạ Long; phía Nam giáp phường Bãi Cháy và vịnh Hạ Long (Hình 2.1).

Do nằm ở vị trí thấp, lại có cửa ra (eo vịnh) thông với vịnh Hạ Long nên vịnh Cửa Lục có vai trò quan trọng trong việc điều tiết chế độ thủy, hải văn các sông trước khi đổ ra vịnh Hạ Long. Các chất thải chảy vào vịnh Cửa Lục từ các hoạt động xung quanh hoặc nội tại trong vịnh sẽ được phân hủy một phần, một phần lắng đọng, một phần được vận chuyển ra khỏi vịnh. Điều này lý giải tại sao môi trường nước vịnh Cửa Lục vẫn có nhiều chỉ tiêu nằm trong giới hạn cho phép.


Hình 2 1 Vị trí địa lý vịnh Cửa Lục và phụ cận trên ảnh viễn thám 2 1 2 3

Hình 2.1. Vị trí địa lý vịnh Cửa Lục và phụ cận trên ảnh viễn thám

2.1.2. Điều kiện tự nhiên

1. Địa chất

Nền địa chất cấu tạo nên lưu vực vịnh Cửa Lục bao gồm các thành tạo có tuổi từ Ordovic đến Đệ tứ, trong đó chủ yếu là các đá trầm tích và trầm tích phun trào. [8]

- Các thành tạo tuổi Carbon - Permi có ba hệ tầng là các hệ tầng Cát Bà, Bắc Sơn và Bãi Cháy:Khu vực nghiên cứu nằm trong Hệ tầng Bãi Cháy (P2bc) phân bố thành dải hẹp trên các đồi ở hai phía của Cửa Lục

- Các trầm tích Mesozoi trên lưu vực có bề dày chung khoảng 8000m, bao gồm các hệ tầng Hệ tầng Nà Khuất (T2 nk) cấu tạo nên các dãy núi ở vị trí phân thuỷ ở phía bắc lưu vực, thượng nguồn của sông Trới và sông Vũ Oai (nhánh phía tây của sông Diễn Vọng); Hệ tầng Hòn Gai (T3n - r hg) phân bố ở trên các dải núi thấp phân bố xung quanh vịnh Cửa Lục, có chứa nhiều vỉa than.

- Các thành tạo Kainozoi phân bố chủ yếu trong và xung quanh vịnh Cửa Lục, gồm các trầm tích Miocen đến hiện đại. Thuộc Neogen có hệ tầng Đồng Ho (N1 đh) và hệ tầng Tiêu Giao (N2 tg). Hệ tầng Đồng Ho phân bố trên các dải đồi thấp ở rìa vịnh Cửa Lục từ Giếng Đáy qua Hoành Bồ.

- Các thành tạo Pleistocen phân bố trên các dải gò đồi thấp xung quanh vịnh Cửa Lục với các thành tạo nguồn gốc sông - lũ gồm chủ yếu vật liệu hạt thô như cuội, tảng và các thành tạo nguồn gốc biển với thành phần chủ yếu là cát bột xám vàng.

- Các thành tạo Holocen phân bố ở phần địa hình thấp quanh và trong phạm vi vịnh Cửa Lục.

Các thành tạo địa chất phía Bắc quốc lộ 18B (Ordovic thượng - Silur và Carbon - Permi) có kết cấu rắn chắc, khả năng phong hoá yếu, tỷ lệ hạt thô cao và ít chịu ảnh hưởng bởi hệ thống các đứt gẫy kiến tạo nên nền tảng rắn của các cảnh quan khá ổn định, ít phát sinh vật liệu rửa trôi.

Các thành tạo phía Nam quốc lộ 18B và xung quanh vịnh Cửa Lục (Mesozoi và Neogen) có kết cấu ít rắn chắc hơn, tầng phong hoá khá dầy và có nhiều hạt mịn (bột, sét), chịu ảnh hưởng mạnh của hệ thống các đứt gẫy kiến tạo, hình thành đới phá huỷ phức tạp, nhất là các thành tạo chứa than ở phía đông vịnh Cửa Lục (Hệ tầng Hòn Gai (T3n - r hg)). Do đó, khi có những tác động của hoạt động kinh tế, khai thác, nền tảng rắn của các cảnh quan thường dễ bị phá vỡ, phát sinh lượng lớn vật liệu mịn, có thể bị rửa trôi xuống vịnh Cửa Lục.

2. Đặc điểm địa hình

Nằm trên đới bờ thuộc dải ven biển tỉnh Quảng Ninh, lưu vực vịnh Cửa Lục có dạng hình phễu với cạnh đáy lớn nằm kéo dài theo phương á vĩ tuyến. Địa hình có dạng hướng tâm về phía đáy là vịnh Cửa Lục. Độ dốc từ Bắc xuống Nam lớn hơn nhiều lần so với độ dốc từ phía Đông và phía Tây. [9]

Địa hình có tính phân tầng độ cao theo hướng giảm dần từ Bắc xuống Nam. Đường phân thuỷ của lưu vực nằm trên các khối núi có độ cao 800 - 1000m (đỉnh cao nhất là Am Váp với độ cao 1090m), chuyển xuống bậc cao từ 400 - 600m, đến 200 - 300m rồi đến dải đồi núi thấp với độ cao dưới 200m vòng quanh vịnh Cửa Lục. Các dãy núi phía Bắc lưu vực chính là những bức tường chắn mây, tạo nên

những cơn mưa dữ dội kéo dài ở đầu nguồn, mang lũ lớn cuốn theo nhiều vật chất từ các khu vực khai thác khoáng sản và các sườn đổ lở trôi về hạ lưu.

Ở phía Đông và Tây của vịnh Cửa Lục có những dải đồi cao, núi thấp có hướng không phù hợp với hướng cấu trúc chung của địa hình. Phía Tây vịnh là dãy núi Chùa Lôi với độ cao từ 500 - 600m nằm kéo dài theo phương Tây Bắc - Đông Nam. Ở phía Đông là dãy núi Giáp Khẩu (nơi tập trung những mỏ than có giá trị công nghiệp) với độ cao tới 200 – 300 m, lại có phương kéo dài theo hướng Đông Bắc – Tây Nam. Phương kéo dài của các dãy núi này phù hợp với phương của cấu trúc địa chất trên các đá trầm tích của hệ tầng Hồng Gai và tạo nên hình thái đặc thù của vịnh Cửa Lục.

Trên lưu vực có bốn mức bề mặt san bằng tồn tại ở những độ cao khác nhau: 800 - 1000m, 400 - 600m, 200 - 300m và 80 - 100m. Ba bề mặt cao tồn tại dạng sót với diện tích nhỏ hẹp trên đỉnh của các dãy núi phía Bắc. Bề mặt 80 - 100m có diện phân bố rộng hơn, hiện đang chịu tác động của xâm thực rửa trôi để tạo nên những sườn dốc 5 - 120.

* Các kiểu địa hình chính vịnh Cửa Lục bao gồm:

- Địa hình núi có độ cao từ 600 - 1000m phân bố chủ yếu ở phía Bắc lưu vực (chiếm 10% diện tích tự nhiên). Địa hình núi thấp với độ cao từ 200 - 500m. Địa hình đồi bóc mòn có độ cao khoảng 30 - 200m (nhưng phổ biến ở độ cao 100 - 150m) với diện tích khoảng 45km2. Địa hình thung lũng chiếm 8% tổng diện tích khu vực. Địa hình đồng bằng phù sa ven vũng vịnh phân bố chủ yếu xung quanh vịnh Cửa Lục.

+ Địa hình bãi triều phân bố xung quanh vịnh Cửa Lục, ngập nước theo chế độ lên xuống của thuỷ triều, thích hợp cho các loại rừng ngập mặn phát triển.

Bãi triều là thành tạo hiện đại phổ biến ở ven bờ vịnh Cửa Lục. Nguồn cung cấp bồi tích phần lớn là các sản phẩm phong hoá được rửa trôi từ các vùng đồi núi xung quanh vịnh đưa xuống. Ở bờ phía Bắc, các bãi triều rộng và kéo dài hơn. Cấu tạo bãi triều là các trầm tích bột, cát bột và bùn sét màu xám đến xám đen. Dòng triều là động lực chính phân bố lại vật chất tạo ra các bãi triều. Do tính chất ít ổn định, các bãi triều dễ bị các dòng triều mạnh làm thay đổi hình thái, nhất là vào mùa mưa lũ. Vào thời kỳ này, quá trình xâm thực thường xảy ra mạnh ở đuôi các bãi

triều, vật chất bào xói được mang theo dòng triều, làm xuất hiện các doi, bãi mới tại những nơi có điều kiện ở hạ lưu.

- Địa hình khu vực vịnh Cửa Lục để dựa vào hình thái, cao độ của các bãi triều có thể phân ra bãi triều thấp và bãi triều cao [10]:

+ Bãi triều cao: giới hạn trong khoảng độ cao từ mực nước biển trung bình đến mực nước biển cao nhất (2,06 - 4,7 m/0mHĐ), phân bố rộng khắp trong vịnh Cửa Lục; đặc trưng bởi thời gian phơi cạn 12 - 14giờ/ngày. Trên bề mặt phát triển nhiều thực vật ngập mặn.

+ Bãi triều thấp: giới hạn trong khoảng độ cao từ mực nước biển thấp nhất đến mực nước biển trung bình (2,06 m/0mHĐ); hàng ngày được phơi cạn 10 - 12 giờ nhưng không phải là toàn bộ bãi. Trên bề mặt hoàn toàn vắng mặt thực vật ngập mặn.

+ Lạch xâm thực triều: Biên độ triều lớn (4 - 4,7 m) và dao động mực nước lên xuống theo chu kỳ là động lực chính tạo ra dòng triều trong vịnh, tạo nên các lạch xâm thực triều. Dựa vào độ sâu hoạt động xâm thực của dòng triều mà lạch xâm thực triều được chia làm 02 nhóm:

Nhóm lạch xâm thực triều mặt: hoạt động trong khoảng độ cao của bãi triều (từ 4,7 m đến 0 mHĐ), phát triển trong đới triều cao và chia cắt chúng thành nhiều mảnh riêng biệt.

Nhóm lạch xâm thực triều ngầm kế thừa: phân bố ở đáy vịnh và những nơi đáy biển hẹp lại bởi hai đảo (Khu vực Hòn Gạc). Tại Cửa Lục, nơi hẹp nhất cũng là nơi dòng triều xâm thực mạnh nhất, đạt độ sâu cực đại trên 20m. Nhóm lạch này có nguồn gốc kế thừa từ các thung lũng kiến tạo và các thung lũng xâm thực trước thời kỳ biển tiến. Nhóm gồm 5 cấp, tương ứng với các mức độ sâu xâm thực cơ sở là: 1,5 - 2 m, 3 - 5 m, 11 - 12 m và 18 - 20 m. Do sự tích tụ đáy biển mà nhiều nơi thuộc nhóm này đã bị bồi lấp gián đoạn độ sâu như ở cửa sông Man và một số cửa sông nhỏ bị chặn lại.

3. Khí hậu

Chế độ khí hậu khu vực nghiên cứu mang nét đặc trưng của khí hậu vùng ven biển Đông Bắc và chịu ảnh hưởng của chế độ gió mùa (khí hậu nhiệt đới gió mùa ẩm), có mùa đông tương đối lạnh, thời kỳ khô ngắn, lượng mưa hàng năm cao.

Xem tất cả 106 trang.

Ngày đăng: 15/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí