Đánh giá kết quả phục hồi chức năng vận động của bệnh nhân tai biến mạch máu não tại bệnh viện điều dưỡng-phcn tỉnh Thái Nguyên - 2


* Phân bố cho thuỳ chẩm và mặt dưới thuỳ thái dương là động mạch

não sau, đây là một nhánh động mạch tận.

* Tuần hoàn não có 3 hệ thống nối thông quan trọng.

- Hệ thống nối thông các động mạch lớn trước não, giữa động mạch

cảnh trong, động mạch cảnh ngoài và giữa các động mạch đốt sống.

- Hệ thống tạo đa giác willis gồm động mạch thông trước, động mạch

não trước, động mạch thông sau và động mạch não sau.

- Hệ thống ở quanh vỏ não với sự nối thông giữa các nhánh nông của các động mạch não.

* Đặc điểm sinh lý và chuyển biến của tuần hoàn não.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 67 trang tài liệu này.

+ Tiêu thụ oxy và glucoza của não: Não tiêu thụ O 2 trung bình 3,3 – 3,8ml/100g/phút, tiêu thụ glucoza của não trung bình 5,6mg/100g não/phút.

+ Lưu lượng tuần hoàn não: Theo Ingvar và cộng sự lưu lượng tuần hoàn não trung bình ở người lớn là: 49,8 5,4ml/100g não/1 phút. Trong đó ở chất xám là 79,7 10,7/100g não/1 phút, ch ất trắng là 20,5 2,5ml/100g não/1 phút.

Đánh giá kết quả phục hồi chức năng vận động của bệnh nhân tai biến mạch máu não tại bệnh viện điều dưỡng-phcn tỉnh Thái Nguyên - 2

+ Đặc điểm chuyển hoá của não và điều hoà tuần hoàn não.

- Khi lượng máu qua não xuống 20ml/100g/1phút về lâm sàng chưa có dấu hiệu gì, từ dưới 20ml/100g/1 phút thì ion K+ thoát ra khỏi tế bào não và ion Na+, Ca++ di chuyển vào trong tế bào và tế bào não bị huỷ hoại (do Ca++ hoạt hoá men tạo gốc tự do).

- Năng lượng hoạt động của tế bào não là do sự oxy hoá glucoza, khi thiếu m áu, thiếu oxy, sự chuyển hoá chỉ tạo ra một lượng thấp ATP và nồng độ axit lactic tăng gây toan hóa vùng thiếu máu và sẽ làm huỷ hoại tế bào não.

- Khi xảy ra thiếu máu cục bộ ở não, sẽ gây dãn các vi mạch tại vùng thiếu máu do các chất chuyển hoá gây ra. Lúc này lượng máu não biến đổi theo huyết áp toàn thân. Hậu quả là nếu huyết áp hạ thì làm máu lên não giảm


làm tăng thêm thiếu máu cục bộ và nếu huyết áp tăng, máu lên não nhiều sẽ làm tăng quá trình thẩm thấu của hàng rào máu não gây phù não hoặc biến đổi ổ nhồi máu lúc đầu thành nhồi máu xuất huyết.

1.1.2. Định nghĩa tai biến mạch máu não

Theo Tổ chức Y tế Thế giới: “ Tai biến mạch máu não là dấu hiệu phát triển nhanh trên lâm sàng của một rối loạn khu trú chức năng của não kéo dài trên 24 giờ thường do nguyên nhân huyết quản. Như vậy trên lâm sàng đây là những biểu hiện bệnh lý bao gồm phần lớn các trường hợp chảy máu trong não, chảy máu dưới nhện, nhồi máu não và không đề cập đến trường hợp thiếu máu não thỏang qua hoặc bệnh lý mạch máu não lan toả khởi đầu lặng lẽ ” [19].

1.1.3. Phân loại tai biến mạch máu não

Tai biến mạch máu não gồm hai loại chính:

* Nhồi máu hoặc thiếu máu cục bộ:

Là tình trạng khi một mạch máu bị tắc nghẽn, khu vực não mà mạch máu đó cung cấp bị thiếu máu và hoại tử.

Phân ra 3 loại thiếu máu não cục bộ:

+ Cơn thiếu máu não thoảng qua: Tai biến phục hồi trong 24 giờ.

+ Thiếu máu não cục bộ hồi phục: Tai biến phục hồi trên 24 giờ và không để lại di chứng.

+ Thiếu máu não cục bộ hình thành: Thời gian phục hồi kéo dài, để lại di

chứng hoặc tử vong.

* Chảy máu não:

Là loại thoát máu khỏi mạch máu chảy vào nhu mô não. Có thể chảy máu ở nhiều vị trí trong não như vùng bao trong, vùng nhân xám trung ương, thuỳ não, tiểu não.


1.1.4. Tình hình tai biến mạch máu não trên Thế giới và Việt Nam

* Thế giới

Tai biến mạch máu não là một bệnh thường gặp, theo Tổ chức điều trị dự phòng TBMMN Châu Âu (1993) ốs người mắc TBMMN lần đầu tiên giao động trong phạm vi từ 141- 219/ 100.000 dân [16].

Theo hiệp hội tim mạch Hoa Kỳ (1999) ước tính mỗi năm có kh oảng

500.000 người Mỹ bị tai biến lần đầu hoặc tái phát, trong đó có khoảng

150.000 trường hợp tử vong, chiếm 1/10 tổng số tử vong do mọi nguyên nhân. Chi phí đềi u trị PHCN tai biến mạch máu não ở Hoa Kỳ xấp xỉ 40 tỷ đô la Mỹ [12], [16], [44].

Tại Pháp, tỷ lệ mắc tai biến mạch máu não ở người trẻ từ 10-30/100.000 dân/ năm, chiếm 5% toàn bộ các trường hợp tai biến mạch máu não. Ở Châu Á, nhiều nghiên cứu cho thấy các nước có nền công nghiệp phát triển cao như: Nhật Bản, Hàn Quốc,.... có tỷ lệ bệnh nhân bị ta i biến mạc máu não tương đương với các nước phát triển ở châu Âu, Mỹ.

Còn các nước khác tình hình tai biến mạch máu não đang tăng lên, có nơi ở mức nghiêm trọng [27].

Theo tài liệu của Tổ chức Y tế thế giới( Murray,1996), năm 1990 ước tính có tới 2,1 triệu người tử vong vì TBMMN tại châu Á, bao gồm 1,3 triệu người ở Trung Quốc, 448.000 người ở Ấn Độ [18].

* Việt Nam

Trong những năm gần đây, ở nước ta TBMMN đang có chiều hướng gia tăng, cướp đi sinh mạng của nhiều người hoặc để lại di chứng nặng nề gây thiệt hại to lớn cho gia đình và xã hội.

Theo Nguyễn Văn Đăng, tại khoa thần kinh Bệnh viện Bạch Mai từ 1991 đến năm 1993 có 631 trường hợp tai biến mạch máu não, tăng gấp 2,5 lần so với thời kỳ 1986-1989 và tỷ lệ mới mắc là 53,2/100.000 dân/năm.[12]


Theo Lê Văn Thành, ỷt

Phạm Ngọc Rao là 44,4%.

lệ tử vong do TBMMN là 21,4%, còn theo

Theo Ngô Đăng Thục, từ năm 1981 - 1983 số bệnh nhân TBMMN tăng

lên 2,3 lần [38],[40].

1.2. Tình hình di chứng và tàn tật do tai biến mạch máu não

1.2.1. Trên thế giới

Theo tổ chức Y tế Thế giới có từ 1/4 – 2/3 số người sống sót sau tai biến mạch máu não trở thành tàn tật vĩnh viễn, còn theo Hakett (1992) cho biết 61% người bệnh sống sót sau tai biến mạch máu não để lại di chứng, 50% số người phải phụ thuộc vào người khác trong sinh hoạt hàng ngày [9].

Theo Davies các di ch ứng thường gặp trong tai biến mạch máu não như:

Đau khớp vai bên liệt do không cử động được hết tầm chiếm 45% bệnh

nhân liệt nửa người.

Gập khớp khuỷu do cơ gập khuỷu ngắn lại chiếm 73%, Gập khớp cổ tay ở phía lòng bàn tay do mất chức năng Gập phía lưng bàn tay và duỗi các ngón tay chiếm 92% Quay sấp cổ tay bên liệt chiếm 75%

Khớp gối bên liệt luôn duỗi gây đi lại khó khăn chiếm 88%

Gân Achille ngắn lại gây “bàn chân rủ” chiếm 94% [1],[31].

Theo Dombovy (1986), 40% người bệnh khả năng mức trung bình, 40% người bệnh giảm khả năng nặng, 10% phải ở lâu dài trong các trung tâm phục hồi chức năng.

1.2.2. Tại Việt Nam

Theo Nguyễn Văn Đăng (1987) [13].

- 92,62% người bệnh tai biến mạch máu não có di chứng về vận động

- 27,69% có di chứng nặng

- 68,42% có di chứng nhẹ và vừa.


Theo Cao Minh Châu nghiên cứu thấy di chứng về vận động chiếm tỷ lệ cao như:

+ Gập phía lòng khớp cổ tay chiếm 87,95%

+ Gập phía lòng khớp cổ chân chiếm 96,39%

Theo Hoàng Văn Thu ận (2001), Số người sống sót sau tai biến mạch máu

não để lại di chứng cao: 52,2% là tàn phế, 33,08% là phải giúp đỡ một phần [34].

1.3. Phục hồi chức năng cho bệnh nhân liệt nửa người do tai biến mạch

máu não

1.3.1. Định nghĩa

PHCN bao gồm các biện pháp y học, kinh tế xã hội học, giáo dục và kỹ thuật phục hồi làm giảm tối đa sự giảm chức năng và tàn tật, bảo đảm cho người tàn tật hội nhập hoặc tái hội nhập xã hội. PHCN không chỉ huấn luyện người tàn tật thích nghi với môi trường sống mà còn tác động vào môi trường và xã hội, tạo nên khối thống nhất cho quá trình tái hội nhập. PHCN là trả lại chức năng cho người tàn tật hay giúp họ xử trí tốt hơn với tình trạng tàn tật của mình để thích nghi với cuộc sống ở nhà và ở cộng đồng [24].

1.3.2. Mục đích của phục hồi chức năng bệnh nhân liệt nửa người

- Giúp bệnh nhân tự mình di chuyển và đi từ nơi này đến nơi khác, bao gồm cả việc hướng dẫn người bệnh sử dụng các dụng cụ trợ giúp cho vận động và đi.

- Giúp bệnh nhân tự làm được những công việc trong đời sống và sinh

hoạt hàng ngày.

- Giúp bệnh nhân thích nghi với những di chứng còn lại.

- Giúp bệnh nhân trở lại với nghề cũ, hoặc có nghề mới thích hợp với

hoàn cảnh hiện tại của bệnh nhân.


1.3.3. Nguyên tắc phục hồi chức năng bệnh nhân liệt nửa người

- PHCN nên bắt đầu càng sớm càng tốt sa u TBMMN, khi tình tạrng toàn thân cho phép.

- Tập vận động phải cân xứng 2 bên, không sử dụng vận động bên lành

bù trừ hoặc thay thế cho bên liệt.

- Điều chỉnh trương lực cơ trở lại bình thường, hoặc gần bình thường

bằng kỹ thuật kích thích hay ức chế.

- Sử dụng các kỹ thuật tạo thuận trong tập luyện giúp người bệnh cảm

nhận vận động bình thường.

- Sử dụng các bài tập liên quan, gần gũi với cuộc sống sinh hoạt thường

ngày của người bệnh.

- Phát huy tính tích cực, chủ động của người bệnh và gia đình trong tập luyện, hướng dẫn người bệnh và gia đình để họ có thể thực hiện các bài tập vận động. Sau khi ra viện người bệnh cần tiếp tục tập luyện tại nhà với sự giúp đỡ của người thân trong gia đình.

1.3.4. Nhu cầu phục hồi chức năng cho bệnh nhân liệt nửa người do t ai biến mạch máu não

Tai biến mạch máu não là một trong các loại bệnh để lại nhiều di chứng

và gây lên tàn tật nhiều nhất

Do vậy nhu cầu phục hồi chức năng của người bệnh này rất lớn

* Nhu cầu phục hồi chức năng:

- Bao gồm những chức năng cơ bản mà người tàn tật không thể thực hiện được phải phụ thuộc một phần hoặc toàn bộ vào người khác, trong khi những người cùng tuổi, cùng giới, cùng hoàn cảnh có thể thực hiện được

- Bao gồm những nhu cầu tự chăm sóc trong sinh hoạt hàng ngày (ăn, uống, mặc ...), nhu cầu giao tiếp (nói, ra hiệu, viết), nhu cầu vận động (ngồi, đi, đứng), nhu cầu hội nhập xã hội (tham gia các hoạt động gia đình và xã hội ...).


* Tiêu chuẩn phân loại nhu cầu phục hồi chức năng

- Người tàn tật có 23 nhu cầu phục hồi, WHO đã chia thành các nhóm sau:

- Nhóm nhu cầu phục hồi chức năng trong sinh hoạt: Khả năng có thể

tự ăn uống, tắm giặt, vệ sinh cá nhân ...

- Nhóm nhu cầu phục hồi chức năng về vận động: Tự đứng lên, ngồi

xuống, vận động tay chân, đi lại trong nhà và quanh phố.

- Nhóm nhu cầu phục hồi chức năng về giao tiếp : Có thể giao tiếp được qua nói, đọc, sử dụng các dấu hiệu.

- Nhóm nhu cầu phục hồi chức năng trong hội nhập xã hội: Đây là nhóm nhu cầu cao nhất của con người, ngưới tàn tật có thể tham gia các hoạt động của gia đình và cộng đồng, có việc làm và có thu nhập, được mọi người trong gia đình và xã hội tôn trọng.

1.3.5. Một số kỹ thuật PHCN vận động cơ bản cho những người tàn tật sau

tai biến mạch máu não.

Có nhiều phương pháp phục hối chức năng cho người bệnh liệt nửa người.

* Phương pháp ậtp theo tầm vận động (Phương pháp ROM của Trần Văn Chương) [5]:

- Định nghĩa: Tập theo tầm vận động là động tác tập gấp, duỗi được nhắc đi nhắc lại thường xuyên của một hoặc nhiều khớp theo tất cả các hướng mà khớp đó vận động.

- Mục đích: Mục đích của phương pháp này là để giữ và duy trì độ mềm

dẻo của các khớp, phòng ngừa các khớp bị cứng, co rút và biến dạng.

- Chỉ định: Được chỉ định trong nhiều trường hợp chủ yếu ở trẻ em bị bại liệt, chấn thương hoặc do các nguyên nhân khác làm cho một phần của chi và cơ thể không cử động bình thường được, đặc biệt là những trường hợp có mất cân bằng cơ dẫn đến nguy cơ co rút. Trẻ em bị bại não, gai đôi, bàn chân


khoèo hoặc các nguyên nhân khác dẫn đến biến dạng. Trong trường hợp liệt

nửa người do TBMMN, phương pháp này ít được sử dụng đến.

* Phương pháp Bobath: đư ợc phổ biến và áp dụng nhiều nhất từ năm 1985, sau hội thảo các chuyên gia phục hồi chức năng của Hà Lan, phương pháp phục hồi chức năng vận động của Bobath cho bệnh nhân liệt nửa người bắt đầu được áp dụng có hệ thống ở Việt Nam với hai mục tiêu chính: Chống mẫu co cứng và phục hồi chức năng vận động tự chủ của bên liệt [35].

* Tư thế chống mẫu co cứng

Liệt nửa người do tai biến mạch máu não lúc đầu là liệt mềm, sau đó dần dần chuyển sang liệt cứng với mẫu co cứng rất đặc trưng: Cánh tay khép, cẳng tay gấp, chân duỗi và đổ ra ngoài, bàn chân duỗi, đầu nghiêng về bên liệt.

Cùng với tăng trương lực cơ, người bệnh không còn khả năng điều khiển bên liệt theo ý muốn, chính vì thế cần có biện pháp chống mẫu co cứng ngay từ lúc đầu, càng sớm càng tốt. Để chống mẫu co cứng đến nay chủ yếu vẫn dùng kỹ thuật “tư thế” trong nằm ngửa, nằm nghiêng bên liệt, nằm nghiêng bên lành và xoay đùi vào trong, ầđu thẳng. Khi người bệnh đã ngồi hay đứng, đi cũng cần tiếp tục chống mẫu co cứng [18], [48].

* Phục hồi vận động bên liệt

Việc phục hồi vận động bên liệt cho người liệt nửa người do tai biến mạch máu não cần được tiến hành sớm, tuỳ theo giai đoạn, tình trạng của người bệnh mà ứng dụng các kỹ thuật cho phù hợp với những động tác thụ động, chủ động có trợ giúp, vận động chủ động và được lặp đi lặp lại, hoàn thiện dần dần.[8], [11], [18].

+ Động tác thụ động được áp dụng khi người bệnh không tự làm được, cần có sự trợ giúp hoàn toàn, đó là các vận động cơ bản của khớp (duỗi, gấp, dạng, khép, xoay...) và duy trì cho tới khi xuất hiện co cơ chủ động.


+ Động tác chủ động có trợ giúp được áp dụng khi người bệnh bắt đầu có thể thực hiện các động tác một phần theo ý muốn hay mệnh lệnh cần sự trợ giúp thêm của người khác để vận động đạt mức tối đa và đúng. Quá trình này có thể tiến hành bằng nhiều cách: Bên lành giúp bên liệt, người khác trợ giúp, kết hợp sử dụng một số dụng cụ trợ giúp...

+ Động tác chủ động thể hiện quá trình phục hồi dần dầ n của điều khiển thần kinh trung ương, từ động tác giản đơn đến hiệp đồng và tư duy phức tạp theo ý muốn, được tiến hành ở tư thế nằm như lăn trở, vận động chi thể, làm cầu, dồn trọng lượng về bên liệt..., rồi chuyển sang tư thế ngồi tập các động tác chi thể và cột sống, sau đó đến tập đứng và tập đi.

* Duy trì vận động bên lành

Vận động bên lành không phải nhằm thay thế bên liệt hoặc tăng sức cơ, mục đích là cải thiện chất lượng vận động, duy trì sức cơ, cải thiện tuần hoàn và chuyển hoá chung, hạn chế tác hại của giảm động kéo dài. Chủ yếu là vận động chủ động hết tầm, có thể ở tư thế nằm, ngồi, đứng, tuỳ theo khả năng của người bệnh.

* Sử dụng một số hình ảnh minh hoạ phục hồi chức năng vận động cơ bản

cho bệnh nhân liệt nửa người sau tai biến mạch máu não. (Xin xem ở phụ lục)

Việc minh hoạ hình ảnh cho các bài tập vận động trong phục hồi chức năng là rất quan trọng giúp cho người hướng dẫn tập và người bệnh hiểu được một cách dễ dàng, góp phần nâng cao chất và hiệu quả trong điều trị.

* Một số biện pháp phòng loét và điều trị loét.

Một trong những phương pháp điều trị phục hồi chức cho bệnh nhân liệt nửa người do tai biến mạch máu não là phòng loét và điều trị loét, với mục tiêu dự phòng loét là cơ bản, vì khi đã bị loét từ hoại tử da nhanh chóng lan ộrn g và sâu vào các pầhn mềm khác, kèm theo nhiễm khuẩn,


việc điều trị sẽ gặp khó khăn, gây trở ngại nhiều cho quá trình phục hồi, chăm sóc trở nên phức tạp, thậm chí có thể tử vong do nhiễm khuẩn hoặc quá suy kiệt:

Các biện pháp phòng loét:

- Giường nằm có dát, có ga khô sạch phủ lên, có dùng gối hoặc vỏ chăn.

- Thay đổi vị trí thường xuyên, lăn trở người bệnh 2, 3 giờ 1 lần.

- Giữ gìn vệ sinh các vùng da dễ loét: Hàng ngày 1 đến 2 lần lau bằng khăn mềm nhúng nước ấm vắt khô, sau đó lau khô bằng khăn mềm sạch, nhất là sau khi đi đại tiện, tiểu tiện …

- Thường xuyên quan sát da, kiểm tra phát hiện sớm các dấu hiệu đe doạ loét tại các điểm tì như cảm giác ngứa, đau, thay đổi màu da (trắng bợt, đỏ, tím) để điều trị sớm trước khi trợt da.

- Nếu phát hiện dấu hiệu đe doạ loét tại các điểm tì thì dùng gối đệm kê để vùng đó không tiếp tục bị đè ép và giữ không để trợt da. Khi loét cần phải rửa chỗ loét bằng nước muối sinh lý 9‰, dùng kháng sinh [11], [18].

* Huấn luyện các hoạt động tự chăm sóc.

Huấn luyện các hoạt động tự chăm sóc (mặc - cởi quần áo, ăn uống,

…) là ấr t quan trọng và không được xem nhẹ. Người sau tai biến mạch

máu não có thể độc lập về chức năng vận động nhưng chưa hẳn đã độc lập trong các hoạt động trong chăm sóc bản thân nếu như không huấn luyện cho họ, họ sẽ cảm thấy hạnh phúc vì không còn phải phụ thuộc vào người khác. Cần hướng dẫn người bệnh thực hiện các động tác này sao cho đơn giản, phù hợp với họ theo cách trước mà họ đã làm. Người bệnh có thể ăn bằng nhiều cách khác nhau, có thể dùng một tay hoặc cả hai tay, có thể dùng thìa hoặc đũa… Mặc quần áo đối với người bệnh liệt nửa người sau tai biến mạch máu não là khó, trước hết người tập phải mặc cho người bệnh mặc dù họ không yêu cầu, mặc cho họ những quần áo thông thường


của họ theo khả năng có thể, khi hết khó khăn thì động viên, hướng dẫn người bệnh tự mặc …[11], [16], [30].

* Một số dụng cụ trợ giúp trong điều trị phục hồi chức năng vận động

cho bệnh nhân liệt nửa người sau tai biến mạch máu não.

Trong phục hồi chức năng cho bệnh nhân liệt nử a người dụng cụ trợ giúp chỉ tạm thời nhưng lại góp phần không nhỏ đem lại hiệu quả thiết thực, cải thiện được tình trạng tàn tật, đề phòng các di chứng nặng, đề phòng được các biến dạng của cổ tay, cổ chân … Các dụng cụ trợ giúp bao gồm: thanh song song, khung tập đi, các loại nạng bốn chân, nạng nách, nạng tay, gậy tập đi, đai nâng chân, xe lăn, máng đỡ bàn tay, bàn chân, đai nâng bàn chân, dải đeo cánh tay, nẹp …

- Các loại nạng 4 chân, nạng nách, nạng tay, gậy tập đi, xe lăn giúp cho người bệnh đi lại, di chuyển.

- Thanh song song giúp người bệnh tập đi, tập thăng bằng, tập dáng đi.

- Dải đeo cánh tay đề phòng bán trật khớp vai.

- Các loại máng đỡ, nép đề phòng di chứng ngập phía lòng của bàn

chân, bàn tay.

- Đai nâng chân giúp kéo bàn chân lên phía mu tạo bàn chân vuông góc

với cẳng chân (chống bàn chân rủ) để người bệnh đi lại dễ dàng hơn [1], [8].

1.4. Một số nghiên cứu liên quan đến mức độ độc lập trong sinh hoạt hàng ngày của bệnh nhân liệt nửa người do tai biến mạch máu não trên Thế giới và Việt Nam

Việc đánh giá khả năng thực hiện các hoạt động sống hàng ngày liên quan đến tình trạng ăn uống, tắm, kiểm soát đại tiểu tiện, chăm sóc bản thân, thay quần áo, di chuyển,… một giai đoạn hết sức quan trọng tạo điều kiện cho quá trình tái h ội nhập xã hội và cải hiện chất lượng cuộc sống cho người tàn tật.

Mức độ độc lập trong sinh hoạt hàng ngày bao gồm:


+ Hoạt động phụ thuộc hoàn toàn.

+ Hoạt động phụ thuộc ít.

+ Hoạt động phụ thuộc nhiều.

+ Hoạt động độc lập.

1.4.1. Thế giới

Theo Sveen U và ộcng sự, mức độ độc lập trong sinh hoạt hàng ngày cao hay thấp phụ thuộc không nhỏ vào tình trạng khiếm khuyết chức năng vận động nhiều hay ít [68].

Okamusa T và cộng sự khi nghiên cứu sự tham gia của các kỹ thuật viên vật lý trị liệu trong điều trị phục hồi chức năng vận động cho bệnh nhân liệt 1/2 người do TBMMN thấy rằng: Việc tiến hành thường xuyên phục hồi chức năng vận động có tác dụng tốt cải thiện mức độ độc lập trong sinh hoạt hàng ngày của người bệnh [62].

Yamashita K và cộng sự khi nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến mức độ độc lập trong sinh hoạt hàng ngày ở những bệnh nhân tai biến mạch máu não thấy: Hai yếu tố chính ảnh hưởng đến mức độ độc lập trong sinh hoạt hàng ngày là mức độ độc lập ngay trước khi tiến hành phục hồi chức năng và khoảng thời gian kể từ khi bệnh khởi phát đến khi bắt đầu tiến hành chương trình phục hồi chức năng [58].

Ishikawa và cộng sự cho rằng sự phục hồi mức độ độc lập trong sinh hoạt hàng ngày liên quan mật thiết với nhóm tuổi, thời gian nằm viện, thị lực và khả năng định hướng của bệnh nhân [54].

Pederson P.M và cộng sự cho rằng những bệnh nhân tai biến mạch máu não có khiếm khuyết về định hướng sẽ ảnh hưởng tới mức độ độc lập trong sinh hoạt hàng ngày [63].

Theo Jorgensen và cộng sự, tỷ lệ độc lập trong sinh hoạt hàng ngày cao hay thấp phụ thuộc vào mức độ tai biến mạch máu não nặng hay nhẹ. Mức độ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 25/04/2022