Thu Thập Số Liệu Theo Nội Dung Của Mẫu Bệnh Án Nghiên Cứu


tai biến mạch máu não càng nặng thì sự phục hồi về chức năng trong sinh

hoạt hàng ngày càng khó khăn [46].

Nakayma H và cộng sự khi nghiên cứu ảnh hưởng của tuổi tới kết quả phục hồi của tai biến mạch máu não thấy rằng mức độ độc lập trong sinh hoạt hàng ngày của người trẻ tuổi phục hồi tốt hơn người cao tuổi [61].

Tiến hành theo dõi 50 người sau tai biến mạch máu não dưới 18 tuổi Hurvitz E.A và cộng sự thấy tuổi trẻ là yếu tố thuậ n lợi cho sự phục hồi về mức độ độc lập trong sinh hoạt hàng ngày [43].

Nghiên cứu sự khác nhau trong phục hồi về chức năng theo giới tính của 165 người bệnh sau một năm bị tai biến mạch máu não, Wyller T.B và cộng sự cho biết mức độ độc lập trong sinh hoạt hàng ngày của nam giới cao hơn nữ giới [69].

Chopra J.S và cộng sự nghiên cứu trên hai nhóm bệnh nhân chảy máu não và nhồi máu não, sau phục hồi chức năng thấy rằng mức độ độc lập trong sinh hoạt hàng ngày giữa hai nhóm không có sự khác nhau [37].

Một công trình nghiên cứu trong bệnh viện ở Anh, tổng kết dựa vào hỏi người bệnh sống sót sau tai biến mạch máu não 3 tháng cho thấy, nếu người bệnh ngay từ đầu không tự đi, mặc quần áo, ăn uống, ra khỏi giường để tự ngồi vào ghế bành thì số người may mắn tự làm việc đó tương ứng là 65%, 2/3, 54% và 68%, còn nếu người bệnh có tay liệt sau hai tuần không cử động được thì số người may mắn dùng lại cánh tay đó là 14% [38].

Indeavik B và cộng sự cho biết những người bị tai biến mạch máu não được áp dụng điều trị và chăm sóc toàn dệin sau 18,6 ngày nằm viện, có 56,3% độc lập hoàn toàn trong sinh hoạt hàng ngày sau 6 tuần và tỷ lệ này là 60% sau 26 tuần bị bệnh, còn đối với những người không được điều trị và chăm sóc toàn diện chỉ có 48,8% độc lập hoàn toàn trong sinh hoạt hàng ngày sau 6 tuần, tỷ lệ là 49,4% sau 28 tuần bị bệnh [44] [45].


Nghiên cứu theo dõi 76 bệnh nhân tai biến mạch máu não với thời gian điều trị phục hồi chức năng từ 20 đến 171 ngày, Grimby G và cộng sự nhận thấy vào thời điểm kết thúc chương trình có trên 20% số người sau tai biến mạch máu não độc lập hoàn toàn trong sinh hoạt hàng ngày và khoảng 50% cần sự trợ giúp [40].

Schutte T và cộng sự tiến hành chương trình điều trị phục hồi chức năng cho 72 người sau tai biến mạch máu não, với thời gian trung bình là 72,3 ngày thấy rằng, hai năm sau tai biến mạch máu não có 76,6% tiến bộ về chức năng vận động và 61,1% độc lập hoàn toàn trong sinh hoạt hàng ngày [66].

Tiến hành chương trình điều trị phục hồi chức năng cho 277 bệnh nhân tai biến mạch máu não với thời gian nằm viện của nam giới là 57 ± 32 ngày, của nữ là 68 ± 40 ngày, Maehlum S và cộng sự cho biết có 88% các trường hợp độc lập hoàn toàn trong sinh hoạt hàng ngày khi ra viện [49].

Samuelsson M và cộng sự nghiên cứu 81 bệnh nhân nhồi máu não lần đầu cho biết với thời gian dưới 3 năm tai biến mạch máu não, mức độ độc lập trong sinh hoạt hàng ngày chiếm từ 58 - 64%, còn mức độ phụ thuộc hoàn toàn chiếm 12 - 24% [65].

Khi nghiên cứu theo dõi những người sống sót sau tai biến mạch máu não lần đầu tiên, để tìm ra những vấn đề trong chương trình phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng, Motegi A và cộng sự cho biết hai năm sau tai biến mạch máu não có 62% các trường hợp độc lập hoàn toàn trong sinh hoạt hàng ngày [60].

Bằng phương pháp phỏng vấn qua điện thoại, để nghiên cứu ảnh hưởng của tai biến mạch máu não đối với chất lượng cuộc sống của 199 bệnh nhân tai biến mạch máu não lần thứ nhất, với độ tuổi từ 17 đến 49 tại cộng đồng, Alfassa S và cộng sự thấy có 86% các trường hợp độc lập hoàn toàn trong sinh hoạt hàng ngày sau một năm bị bệnh, không có sự thay đổi


có ý nghĩa về mức độ độc lập trong sinh hoạt hàng ngày ở năm tiếp theo, họ cho rằng cần phải phát triển mạnh mẽ chương trình phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng [42].

Tiến hành theo dõi 129 người sau tai biến mạch máu não, đã nằm viện điều trị trung bình 45,6 ngày, một phần ba các đối tượng này đã được điều trị phục hồi chức năng với thời gian trung bình là 72,3 ngày, Belanger L và cộng sự cho biết, 6 tháng sau tai biến mạch máu não có 43% độc lập hoàn toàn và 47,5% cần sự trợ giúp trong sinh hoạt hàng ngày [43].

Indredavik B và ộcng sự nghiên cứu 220 bệnh nhân tai biến mạch máu nãođược chia thành hai nhóm, mỗi nhóm 110 bệnh nhân, trong đó có một nhóm được can thiệp điều trị phục hồi chức năng, còn một nhóm không có can thệip phục hồi chức năng. Kết quả mười năm sau tai biến mạch máu não cho thấy, trong số những người còn sống ở nhóm can thiệp điều trị phục hồi chức năng có 51,85% độc lập hoàn toàn trong sinh hoạt

hàng ngày, ỷt lệ cần sự trợ giúp và phụ thuộc hoàn toàn trong sinh hoạt

hàng ngày chiếm 48,15% [45].

Jorgensen và cộng sự khi tiến hành chương trình phục hồi chức năng cho bệnh nhân tai biến mạch máu não với thời gian trung bình là 37 ngày, sau khi kết thúc chương trình, thấy tỷ lệ các đối tượng có chỉ số Barthel dưới 70 điểm chiếm từ 25% đến 50% và với thời gian 6 tháng tai biến mạch máu não chỉ có 4% độc lập hoàn toàn đối với tai biến mạch máu não rất nặng, 13% độc lập hoàn toàn đối với tai biến mạch máu não nặng, 37% đối với tai biến mạch máu não trung bình, cònđối với tai biến mạch máu não nhẹ có 68% độc lập hoàn toàn trong sinh hoạt hàng ngày [46].

Tiến hành chương trình vật lý trị liệu 3 tháng cho 28 người có thời gian từ 6 đến 12 tháng sau tai biến mạch máu não, Sonde L thấy rằng sau 3 năm, chỉ số Barthel của các trường hợp này là 78,16 ± 16,6 [68].


1.4.2. Việt Nam

Trên thế giới, đã có rất nhiều nghiên cứu về lĩnh vực này [48], [50], [58]. Tuy nhiên, ở nước ta hầu hết các nghiên cứu về phục hồi chức năng cho người bệnh tai biến mạch máu não đã được công bố đều không đề cập đến mức độ độc lập trong sinh hoạt hàng ngày của người sau tai biến mạch máu não, để từ đó làm cơ sở cho việc xây dựng tiêu chuẩn đánh giá mức độ độc lập trong sinh hoạt hàng ngày của người tàn tật nói chung và người tai biến mạch máu não nói riêng [3], [5], [34].

Nguyễn Thuỳ Hương cho biết: Di chứng do tai biến mạch máu não thường

là liệt nửa người, do đó ảnh hưởng đến đời sống sinh hoạt hàng ngày [22].

Theo Nguyễn Văn Đăng: Sau tai biến mạch máu não 15,7% còn cố gắng tự phục vụ được, 33,08% cần sự giúp đỡ một phần và 51,15% cần phục vụ hoàn toàn trong sinh hoạt hàng ngày [37].

Cao Minh Châu nghiên c ứu 83 trường hợp liệt nửa người được điều trị phục hồi chức năng đạt kết quả cho thấy chức năng của người tàn tật được cải thiện đề phòng được các di chứng nặng nề, đề phòng được các biến dạng cổ tay, cổ chân.

Theo Nguyễn Văn Triệu tiến hành điều trị cho 27 bệnh nhân liệt nửa người do tai biến mạch máu não, 3 tháng sau khi ra viện có 18,52% độc lập hoàn toàn, 59,26% cần sự trợ giúp ít, 14,81% cần sự trợ giúp trung bình và 7,41% phụ thuộc hoàn toàn trong sinh hoạt hàng ngày [29].

Ngô Đăng Thục khi nghiên cứu 43 bệnh nhân tắc mạch máu não hệ động mạch cảnh trong, thấy 90,7% các trường hợp tiến triển tốt, tự đi lại được, tuỳ mức độ có thể tự phục vụ trong sinh hoạt cá nhân cho đến mức tiếp tục làm việc và công tác như trước. Khi tiến hành theo dõi điều trị cho 30 bệnh nhân nhồi máu não bằng thuốc Cavinton, thấy 8 tuần sau tai biến mạch máu não có 67% các đối tượng có chỉ số Barthel từ 70 đến 89 điểm, không có trường hợp nào đạt được từ 90 đến 100 điểm [33].


Chương 2

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU


2.1. Đối tượng nghiên cứu

2.1.1. Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân

- Gồm 62 Bệnh nhân liệt nửa người do TBMMN đã được điều trị qua giai đoạn cấp, được chẩn đoán xác định bằng lâm sàng và chụp CT scaner sọ não đang được điều trị nội trú tại bệnh viện Điều dưỡng - PHCN Tỉnh Thái Nguyên.

- Tuổi từ 30 trở lên

- Thời gian điều trị PHCN vận động tại bệnh viện Điều Dưỡng là 6 tuần.

2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ

Không đưa vào nghiên cứu các trường hợp sau:

- Liệt nửa người do nguyên nhân khác không phải là tai biến mạch máu não như: Li ệt nửa người do chấn thương.

- Bệnh nhân có các bệnh lý nội khoa nặng như: suy tim nặng, suy thận. Mắc các bệnh khác ảnh hưởng đến chức năng vận động trước khi bị TBMMN như: bệnh Gut, dị tật.

2.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu:

- Thời gian: Từ 10/2007 đến 10/2008

- Địa điểm: Tại khoa VLTL – PHCN Bệnh Viện Điều Dưỡng và

PHCN Tỉnh Thái Nguyên.

2.3. Phương pháp nghiên cứu

2.3.1. Thiết kế nghiên cứu

- Nghiên cứu theo phương pháp mô tả cắt ngang.

- Phân tích dịch tễ học lâm sàng so sánh trước và sau can thiệp PHCN vận động bằng phương pháp Bobath cho bệnh nhân liệt nửa người sau tai biến mạch máu não.


- Chọn mẫu có chủ đích.

2.3.2. Phương pháp nghiên cứu

Sử dụng các phương pháp đánh giá chức năng vận động đáng tin cậy phù hợp mục đích nghiên cứu, dễ thực hiện và có khả năng ứng dụng trong lâm sàng.

1. Đánh giá mức độ liệt nửa người theo Bobath.

2. Đánh giá mức độ thực hiện các ho ạt động sống hàng ngày theo

Barthel Index.

3. Đánh giá ch ức năng vận động (ngồi, đi, đứng) theo Fugl– meyer scale.

4. Chương trình tập theo nội dung cơ bản của phương pháp B. Bobath. Bài tập chọn lọc phù hợp cho từng người được ứng dụng tại khoa VLTL - PHCN và hướng dẫn, in tài liệu cho bệnh nhân, người nhà tiếp tục thực hiện khi ra viện.

5. Ngoài ra bệnh nhân được dùng thuốc điều trị theo phác đồ chung.

2.3.3. Các bước tiến hành

+ Đánh giá các ch ỉ tiêu về vận động trước khi vào viện của bệnh nhân.

+ Lập mẫu bệnh án nghiên cứu cho mỗi bệnh nhân sau khi đã được vào

khoa VLTL - PHCN Bệnh viện Điều Dưỡng – PHCN Thái Nguyên.

+ Bệnh nhân được tập vận động tại khoa VLTL - PHCN trong thời gian 6 tuần theo bài tập của Bobath dưới sự hướng dẫn của kỹ thuật viên và bác sĩ chuyên khoa PHCN.

2.3.4. Các chỉ tiêu nghiên cứu

- Tuổi, giới

- Nghề nghiệp

- Thời gian (từ khi đột quị đến khi bắt đầu vào viện)

- Bên tổn thương

- Loại tổn tương


- 10 hoạt động cơ bản (theo Barthel Index):

+ Ăn uống

+ Di chuyển từ giường sang ghế hoặc xe lăn và ngược lại.

+ Vệ sinh cá nhân

+ Sử dụng nhà vệ sinh

+ Tắm rửa

+ Đi bộ trên mặt bằng

+ Đi lên hoặc đi xuống cầu thang bậc thềm nhà

+ Thay quần áo

+ Kiểm soát đại tiện

+ Kiểm soát tiểu tiện

- Khả năng ngồi, đi, đứng (theo Fugl - meyer scale).

- Sinh hoá máu:

+ Cholesterol

+ Glucose

2.3.5. Phương pháp thu thập số liệu

2.3.5.1. Xác định đối tượng nghiên cứu

- 62 bệnh nhân liệt nửa người do tai biến mạch máu não được vào điều trị tại khoa vật lý trị liệu - phục hồi chức năng, đạt đủ tiêu chuẩn đã đề ra, được chọn vào nhóm nghiên cứu.

- Tất cả các đối tượng nghiên cứu được khám và ghi chép đầy đủ vào

mẫu bệnh án nghiên cứu.

2.3.5.2. Thu thập số liệu theo nội dung của mẫu bệnh án nghiên cứu

- Thiết kế mẫu bệnh án nghiên cứu (xem ở phụ lục).

- Mẫu bệnh án nghiên cứu được thiết kế dựa trên:


* Thang đểi m Barthel - Index: đánh giá động sống cơ bản

ếkt quả thực hiện 10 hoạt


Nội dung của mẫu bệnh án liên quan đến các hoạt động trong sinh hoạt hàng ngày, gồm các lĩnh vực ăn uống, tắm giặt, kiểm soát đại tiện, tiểu tiện, chăm sóc bản thân, thay quần áo, di chuyển từ giường sang ghế hoặc xe lăn và ngược lại, di chuyển trên mặt bằng và đi lên xuống cầu thang, bậc thềm nhà. Để thuận tiện cho việc đánh giá kết quả chúng tôi gộp mức độ phụ thuộc ít và mức độ phụ thuộc nhiều thành mức độ phụ thuộc một phần. (Xem ở phụ lục).

*Khả năng ngồi, đi, đứng theo Fugl-meyer scale:

Đánh giá các động tác bệnh nhân có thể làm được:

+ Khi nằm có thể tự lăn để nằm nghiêng sang hai bên được không?

+ Khi nằm có vận động gấp, duỗi được tay và chân liệt không?

+ Có thể tự ngồi dậy hay cần phải có người khác giúp?

+ Có thể tự ngồi và giữ thăng bằng được hay cần có người khác đỡ?

+ Có thể vận động được chân tay liệt khi ngồi không?

+ Có thể tự đứng dậy được hay cần phải có người khác giúp?

+ Có thể tự đứng và giữ thăng bằng hay cần phải có người khác giúp?

+ Có tự vận động tay, chân bên liệt khi đứng được không?

+ Có tự đi lại được không?

+ Có tự đi lên xuống cầu thang, bậc thềm nhà được không?


+ Có ựt làm được những công việc trong đời sống và sinh hoạt hàng

ngày như ăn uống, tắm rửa, chăm sóc bản thân (chải đầu, mặc quần áo…),

tham gia các công việc của gia đình được không?

+ Các dụng cụ trợ giúp người bệnh đang sử dụng (nạng nách, gậy tập đi, thanh song song, thanh tường, ròng rọc…)


Nội dung đánh giá và nhận định kết quả:


Các loại

vận động

Mức độ thực hiện

0

1

2

Ngồi dậy

Không ngồi được

Cần trợ giúp

Tự ngồi

Đứng lên

Không đứng được

Cần trợ giúp

Tự đứng

Đi

Không đi được

Cần trợ giúp

Tự đi

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 67 trang tài liệu này.

Đánh giá kết quả phục hồi chức năng vận động của bệnh nhân tai biến mạch máu não tại bệnh viện điều dưỡng-phcn tỉnh Thái Nguyên - 3

* Mức độ liệt nửa người do tai biến mạch máu não theo B.Bobath (xem

ở phụ lục).

* Tuổi, giới, nghề nghiệp: thu thập được qua hỏi bệnh.

* Thời gian (từ khi bị liệt đến khi vào viện): thu thập được qua hỏi bệnh.

* Bên tổn thương: thu thập được bằng cách:

- Đánh giá tình trạng toàn thân.

- Bệnh tim mạch, đo huyết áp, bệnh phối hợp.

- Đánh giá tình trạng liệt

+ Liệt mềm hay liệt cứng.

+ Liệt bên phải hay bên trái.

+ Có kèm theo li ệt mặt hay các rối loạn khác như mất ngôn ngữ không?

* Loại tổn thương: Theo phân loại TBMMN chia làm hai loại Nhồi máu

não và Chảy máu não, thu thập được dựa vào;

+ Lâm sàng:

- Tình trạng toàn thân.

- Mức độ liệt.

- Các rối loạn kèm theo.

+ Cận lâm sàng: bệnh nhân được chụp CT scaner sọ não có chẩn đoán xác định là nhồi máu não hoặc chảy máu não.

Trong những trường hợp bệnh nhân chụp CT scaner có kết quả là vừa nhồi máu não và chảy máu não hoặc không có CT scaner sọ não thì được đưa vào nhóm phân loại tổn thương không xác định.


Sinh hoá máu:

- 62 bệnh nhân đưa vào nghiên cứu được làm các xét nghiệm sau tại

Khoa Khám Bệnh Cấp Cứu - CLS Bệnh Viện Điều Dưỡng - PHCN:

+ Cholesterol máu: Chỉ số bình thường: 3,9 - 5,2 mmol/l khi > 5,2

mmol/l được gọi là tăng.

Bệnh nhân được làm xét nghiệm Cholesterol máu 2 lần

Lần 1 được lấy khi vào viện gọi là: C1

Lần 2 được lấy sau khi điều trị PHCN vận động 6 tuần gọi là: C6

+ Glucose máu: Chỉ số bình thường: 4,2 – 6,4 mmol/l khi > 6,4 mmol/l

được gọi là tăng.

Bệnh nhân được làm xét nghiệm Glucose máu 2 lần và đúng quy trình

kỹ thuật:

Lần 1 được lấy khi vào viện gọi là: G1

Lần 2 được lấy sau khi điều trị PHCN vận động 6 tuần gọi là: G6

2.3.5.5. Phục hồi chức năng vận động cho người bệnh liệt nửa người sau tai

biến mạch máu não theo phương pháp của Bobath.

Mục đích đầu tiên của phương pháp Bobath là huấn luyện lại các vận động bình thường mà trước khi bị liệt đã thực hiện được. Kỹ thuật tập luyện không chỉ chú ý đến tay, chân mà phải chú ý đến toàn bộ cơ thể như là một khối thống nhất, bằng cách khuyến khích người bệnh sử dụng cả bên bị liệt và bên bình thường.

Người tập luyện sử dụng các kỹ thuật đặc biệt: kỹ thuật tạo thuận, kỹ thuật ức chế co cứng (để làm giảm co cứng, giảm trương lực cơ và ức chế các mẫu vận động bất thường), kỹ thuật kích thích (làm tăng trương lực cơ trong các trường hợp liệt mềm) trước khi tập cho bệnh nhân các vận động chủ động


có chọn lọc, vì người bệnh không thể thực hiện được các vận động bình thường khi cơ ở trong tình trạng liệt mềm hoặc co cứng.

Nguyên tắc phục hồi của Bobath là khôi phục lại các mẫu vận động bình thường vốn đã có trên cơ sở loại bỏ các mẫu vận động bất thường bằng cách sử dụng mẫu ức chế phản xạ, sử d ụng phản xạ ức chế tư thế để ngăn ngừa vận động không bình thường do các phản xạ bất thường tạo nên và thúc đẩy việc học lại các vận động theo mẫu vận động bình thường. PHCN vận động là giúp bệnh nhân học lại “cảm giác” vận động, cách vận động và kiểm soát vận động thông qua trương lực cơ trong các hoạt động tự chăm sóc và sinh hoạt hàng ngày, chủ yếu là sử dụng các mẫu ức chế phản xạ và các vị thế đúng trong tập luyện phục hồi [23].

* Mẫu ức chế phản xạ:

- Là các mẫu vận động bất thường để tập thuận cho các vận động bình thường. Một trong những nguyên tắc cơ bản của phương pháp Bobath là sử dụng các mẫu ức chế phản xạ; Ví dụ: làm giảm co cứng các cơ gấp ở thân mình và ở tay bằng cách duỗi cột sống và duỗi cổ đồng thời dạng và xoay khớp vai bên liệt ra ngoài với khuỷ tay duỗi. Theo nguyên tắc như vậy có thể làm giảm co cứng hơn nữa bằng cách duỗi khớp cổ tay, dạng và xoay ngửa ngón tay cái.

* Quy trình kỹ thuật phục hồi chức năng vận động cho người bệnh liệt

nửa người do tai biến mạch máu não.

- Bố trí giường năm cho người bệnh liệt nửa người.

+ Không để người bệnh nằm phía bên liệt sát tường. Tất cả các đồ dùng cho người bệnh ở trong phòng đều ở phía bên liệt.

+ Không kê đầu giường quá cao. Đệm giường luôn phẳng, mềm, chắc đề phòng loét do đè ép và các biến chứng khác.Vật liệu làm đệm thường là mút cao su xốp


- Các vị thế nằm đúng của người bệnh theo mẫu phục hồi bao gồm:

+ Nằm nghiêng phía bên liệt.

+ Nằm nghiêng phía bên lành.

+ Nằm ngửa, tay duỗi dọc theo thân.

+ Nằm ngửa, tay duỗi lên phía đầu.

- Các bài tập vận động chung:

+ Tập vận động thụ động nửa người bên liệt: trong giai đoạn đầu sau đột quỵ khi người bệnh không tự vận động được, họ cần có người khác tập vận động cho họ hoặc hướng dẫn học sử dụng bên lành tập cho bên liệt.

* Kỹ thuật:

Tập theo tầm vận động cho tất cả các khớp của chi trên, chi dưới ở nửa người bên liệt:

. Khớp vai: tập gấp, duỗi, dạng, khép, xoay ngoài, xoay trong.

. Khớp khuỷu: tập gấp, duỗi, quay sấp, xoay ngửa cẳng tay.

. Khớp cổ tay: tập gấp, duỗi, nghiêng về phía xương trụ, ngh iêng về phía xương quay.

. Các ngón tay: ậtp gấp, duỗi, dạng, khép, đối chiếu ngón tay cái với

các ngón khác.

. Khớp háng: tập gấp, duỗi, dạng, khép, xoay trong, xoay ngoài.

. Khớp gối: tập gấp, duỗi.

. Khớp cổ chân: tập gấp mặt lòng, gấp mặt mu, nghiêng vào trong và nghiêng ra ngoài.

. Các ngón chân: tập gấp, duỗi, dạng, khép.

+ Tập vận động có trợ giúp:

Xem tất cả 67 trang.

Ngày đăng: 25/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí