thứ hai và thứ ba là “Cung cấp thông tin phản hồi để điều chỉnh hoạt động dạy học giảng viên và của sinh viên”. Các mục đích được xếp thứ bậc thấp nhất là “Hình thành khả năng tự đánh giá của sinh viên” và “Nhằm xếp hạng sinh viên”.
* Ý kiến của sinh viên
Bảng 2.3. Nhận thức của sinh viên về mục đích đánh giá KQHT
Các mục đích | Mức độ | Tổng điểm |
X | TB | |||||
5 | 4 | 3 | 2 | 1 | |||||
1 | Nhằm xếp hạng sinh viên | 29 | 87 | 39 | 21 | 6 | 658 | 3.61 | 5 |
2 | Xác định kêt quả đạt được của sinh viên so với mục tiêu đề ra | 32 | 89 | 40 | 10 | 11 | 667 | 3.66 | 1 |
3 | Cung câp thông tin phản hồi đê điều chỉnh hoạt động học của sinh viên | 39 | 82 | 36 | 15 | 10 | 671 | 3.68 | 3 |
4 | Cung cấp thông tin phản hồi để điều chỉnh hoạt động dạy của giảng viên | 45 | 79 | 31 | 13 | 14 | 674 | 3.7 | 2 |
5 | Thúc đẩy sinh viên tích cực học tập | 52 | 85 | 20 | 17 | 9 | 702 | 3.85 | 1 |
6 | Hình thành khả năng tự đánh giá của sinh viên | 25 | 87 | 47 | 13 | 10 | 650 | 3.57 | 6 |
Có thể bạn quan tâm!
- Các Thành Tố Của Quá Trình Đánh Giá Kqht Của Sinh Viên Tại Trung Tâm Giáo
- Quy Trình Đánh Giá Kqht Của Sinh Viên Trung Tâm Giáo Dục Quốc Phòng Và An Ninh Theo Tiếp Cận Năng Lực
- Thực Trạng Nhận Thức Của Giảng Viên Và Sinh Viên Trung Tâm Giáo Dục Quốc Phòng Và An Ninh Đại Học Thái Nguyên Về Đánh Giá Kqht Theo Tiếp Cận Năng Lực
- Thực Trạng Thực Hiện Nội Dung Đánh Giá Của Sinh Viên Theo Tiếp Cận Năng Lực
- Ý Kiến Của Sinh Viên Về Thực Trạng Châm Chữa Kết Quả Thực Hiện Nhiệm Vụ Của Sinh Viên Trong Đánh Giá Kqht Theo Tiếp Cận Năng Lực
- Nguyên Tắc Đảm Bảo Tính Phù Hợp Với Chương Trình Đào Tạo
Xem toàn bộ 137 trang tài liệu này.
Qua kết quả bảng 2.3 ta thấy: Điểm trung bình ý kiến của sinh viên nằm trong khoảng từ 3,57 đến 3.85 (tập trung nhiều ý kiến nhất ở mức độ quan trọng). Sinh viên cho rằng mục đích quan trọng nhất của đánh giá KQHT “Thúc đẩy sinh viên tích cực học tập”. Tương tự như giảng viên, mục đích sinh viên cho là quan trọng thứ hai và thứ ba của đánh giá KQHTcũng là “Cung cấp thông tin phản hồi để điều chỉnh hoạt động dạy và hoạt động học”. Mục đích“Nhằm xếp hạng sinh viên” được xếp ở vị trí thứ năm. Và xếp cuối cùng cũng là mục đích “Hình thành khả năng tự đánh giá của sinh viên”
Qua kết quả thu được ở hai bảng 2.2 và 2.3, ta nhận thấy: Với điểm trung bình cao cho thấy cả giảng viên và sinh viên đều có nhận thức tốt về tầm quan trọng của các mục đích của đánh giá KQHT. Tuy giảng viên và sinh viên đề cao những mục đích khác nhau, sự khác nhau đó đã phản ánh rất đúng đặc điểm tâm lí và vị trí, vai trò của từng đối tượng. Đối với giảng viên, là người trực tiếp thực hiện đánh giá sinh viên, họ chú trọng nhất mục đích xác nhận kết quả trong đánh giá KQHT. Mục đích điều chỉnh
hoạt động dạy học cũng được giảng viên coi trọng song họ lại đề cao việc điều chỉnh hoạt động dạy hơn là điều chỉnh hoạt động học. Như vậy, người dạy đề cao hoạt động chủ đạo của giảng viên nhiều hơn hoạt động của sinh viên.
Dưới góc độ người học, họ lại coi trọng động cơ mà đánh giá KQHT tạo ra, do vậy mà đưa mục đích “Thúc đẩy sinh viên tích cực học tập” lên hàng đầu. Chúng tôi tìm hiểu sâu hơn nhận thức của sinh viên về vấn đề này bằng cách trao đổi trực tiếp với một số em, chúng tôi nhận thấy các em chưa có cách hiểu đúng về khái niệm “tích cực học tập”. Em T.N.M cho biết “Chúng em thường tập trung học khi có bài kiểm tra và thi kết thúc học phần” . Như vậy, việc học của sinh viên chỉ là mang tính đối phó với kỳ thi và kiểm tra. Nếu không có đánh giá thì sẽ rất khó kích thích sinh viên học tập. Điều này cũng có nghĩa việc học của sinh viên chưa phải là nhu cầu tự thân của họ và còn thiếu tính tự giác.
Còn em T.K.H thì cho rằng: “Sau khi làm bài kiểm tra, giảng viên thường chỉ đọc điểm cho sinh viên biết chứ ít khi trả bài hoặc nhận xét về bài làm của sinh viên”. Như vậy, trong thực tế giảng viên chủ yếu thực hiện đánh giá để xác nhận kết quả chứ ít coi trọng dùng đánh giá để cải tiến cho việc dạy học.
Thông qua kết quả thu được ta thấy mục đích đánh giá xác nhận được giảng viên đề cao. Đây là một mục đích trọng tâm của đánh giá KQHT nên được giảng viên coi trọng là điều hoàn toàn dễ hiểu. Song, khi thực hiện đánh giá KQHT theo tiếp cận năng lực thì đánh giá nhằm mục đích hỗ trợ cho hoạt động học tập sẽ được quan tâm rất nhiều trong khi vẫn thực hiện đánh giá xác nhận. Ngoài ra, biết tự đánh giá đúng khả năng của bản thân là điều cần thiết và quan trọng trong học tập của sinh viên, nó thể hiện sự chủ động tham gia của sinh viên vào quá trình đánh giá. Nhưng mục đích tự đánh giá chỉ được giảng viên và sinh viên xếp ở vị trí gần cuối cho thấy họ chưa thực sự coi trọng việc này trong quá trình đánh giá KQHT. Điều này sẽ dẫn đến những hạn chế nhất định trong thực hiện đánh giá KQHT theo tiếp cận năng lực.
2.3.1.2. Nhận thức của giảng viên về khái niệm đánh giá KQHT theo tiếp cận năng lực
Nhận thức đúng đắn một vấn đề là cơ sở thực hiện các hoạt động nhằm đạt được hiệu quả cao. Vì vậy trước khi tìm hiểu thực trạng đánh giá KQHT môn Kỹ thuật bắn
súng tiểu liên AK của sinh viên Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh theo tiếp cận năng lực nhóm nghiên cứu tiến hành khảo sát về nhận thức của đội ngũ giảng viên và sinh viên về khái niệm đánh giá KQHT theo tiếp cận năng lực.
Để tìm hiểu nhận thức của giảng viên về khái niệm đánh giá KQHT theo tiếp cận năng lực nhóm nghiên cứu đã sử dụng câu hỏi 3 trong phụ lục 1. Sau quá trình khảo sát thực tế, nhóm nghiên cứu đã tiến hành xử lý số liệu và phân tích thực trạng nhận thức của giảng viên về vấn đề này . Kết quả được thể hiện trong bảng 2.4.
Bảng 2.4. Nhận thức của giảng viên về khái niệm đánh giá KQHT theo tiếp cận năng lực
Các khái niệm | Ý kiến lựa chọn | ||
SL | % | ||
1 | - Đánh giá KQHT theo tiếp cận năng lực là quá trình tập hợp và phân tích thông tin nhằm đưa ra những nhận định về việc vận dụng tri thức, kĩ năng, thái độ của người học để giải quyết các nhiệm vụ dạy học đề ra | 4 | 25 |
2 | - Đánh giá KQHT theo tiếp cận năng lực là đưa ra những nhận định về việc nắm vững tri thức, kĩ năng, thái độ của người học để giải quyết các nhiệm vụ dạy học đề ra. | 0 | 0 |
3 | - Đánh giá KQHT theo tiếp cận năng lực thực chất là quá trình đánh giá các năng lực học tập của người học đạt được sau quá trình dạy học | 0 | 0 |
4 | - Đánh giá KQHT theo tiếp cận năng lực là quá trình tập hợp và phân tích thông tin nhằm đưa ra những nhận định về việc vận dụng tích hợp tri thức, kĩ năng, thái độ của người học để giải quyết các nhiệm vụ dạy học phức hợp trong một bối cảnh thực tế hoặc giả định để đáp ứng mục tiêu về năng lực đặt ra. | 12 | 75 |
5 | - Đánh giá KQHT theo tiếp cận năng lực là quá trình tập hợp và phân tích thông tin về kĩ năng mà người học thực hiện để giải quyết có hiệu quả các nhiệm vụ dạy học phức hợp nhằm đáp ứng mục tiêu về năng lực đặt ra. | 0 | 0 |
Kết quả thu được cho thấy trong số các cách hiểu mà chúng tôi đưa ra, giảng viên tập trung lựa chọn vào hai cách hiểu 1 và 4, trong đó cách hiểu thứ 4 là đúng và đầy đủ nhất.
Đánh giá KQHT theo tiếp cận năng lực có đặc trưng là đánh giá việc vận dụng tri thức, kĩ năng, thái độ của sinh viên trong việc giải quyết nhiệm vụ dạy học cụ thể nhưng những nhiệm vụ đó phải có tính phức hợp, tnghĩa là nhiệm vụ đòi hỏi phải vận dụng tích hợp các tri thức, kĩ năng, thái độ khác nhau để giải quyết. Đồng thời, các nhiệm vụ này thường gắn với các tình huống cụ thể để người học tính đến những đặc điểm riêng khi giải quyết nhiệm vụ. Bên cạnh đó, việc đánh giá KQHT theo tiếp cận năng lực cần xác định được mục tiêu năng lực cần đánh giá và mức độ năng lực mà sinh viên đạt được so với mục tiêu đề ra thì ở cách hiểu thứ 1 chưa nêu được.
Với kết quả khảo sát nêu trên có thể thấy đa số giảng viên đã có nhận thức đúng về đánh giá KQHT theo tiếp cận năng lực (chiếm 75%). Một số giảng viên lựa chọn cách hiểu 1 (chiếm 25%) cho thấy họ chưa nhận thức đầy đủ về bản chất của vấn đề này.
2.3.2. Thực trạng đánh giá KQHT của sinh viên Trung tâm Giáo dục Quốc phòng và An ninh Đại học Thái Nguyên theo tiếp cận năng lực.
2.3.2.1. Thực trạng đánh giá các năng lực của sinh viên
Trên cơ sở tìm hiểu nhận thức của giảng viên và sinh viên Trung tâm về đánh giá KQHT theo tiếp cận năng lực, đề tài tiếp tục tìm hiểu về thực trạng thực hiện vấn đề này, mà trước hết là tìm hiểu thực trạng mức độ thực hiện đánh giá các năng lực của sinh viên trong quá trình dạy học môn học. Tìm hiểu về mức độ thực hiện đánh giá các năng lực quân sự của giảng viên qua hai câu hỏi 4 và 5 ở phụ lục 1 và 2, chúng tôi thu được kết quả như sau:
Bảng 2.5 Thực trạng mức độ thực hiện đánh giá các năng lực của sinh viên
Ý kiến lựa chọn Các mức độ | Giảng viên | Sinh viên | |||
SL | % | SL | % | ||
1 | Rất thường xuyên | 2 | 12.5 | 47 | 25.8 |
2 | Thường xuyên | 9 | 56.2 | 55 | 30.2 |
3 | Thỉnh thoảng | 5 | 31.3 | 73 | 40.2 |
4 | It khi | 0 | 0 | 7 | 3.80 |
5 | Không bao giờ | 0 | 0 | 0 | 0 |
Tổng | 16 | 100% | 182 | 100% |
Theo kêt quả thu được thê hiện qua bảng bảng 2.5 thì giảng viên khá thường xuyên thực hiện đánh giá các năng lực quân sự của sinh viên trong quá trình dạy học môn Kỹ thuật bắn súng tiểu liên AK (Giảng viên 68.7%, sinh viên 56%). Đây là điêm khá tích cực trong hoạt động dạy học và đánh giá KQHT của giảng viên.
Tuy nhiên, khi yêu cầu giảng viên nêu tên những năng lực họ thường đánh giá ở người học thì số lượng giảng viên nêu ra những năng lực mà họ đánh giá cho người học không nhiều:
Bảng 2.6. Ý kiến giảng viên về những năng lực thường đánh giá ở sinh viên
Các năng lực được dánh giá | Số ý kiến | Tỉ lệ % | |
1. | Năng lực chung | ||
NL tư duy (NL tư duy phân tích, NL tư duy tổng hợp, NL tư duy phê phán) | 3 | 18.7 | |
NL giao tiếp bằng ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết | 6 | 37.5 | |
NL hợp tác, làm việc nhóm | 2 | 12.5 | |
NL thu thập, xử lí thông tin | 2 | 12.5 | |
NL tự học | 3 | 18.7 | |
2. | Năng lực quân sự | ||
2.1. | Nhóm năng lực sử dụng súng | ||
Năng lực ngắm bắn | 8 | 50 | |
Năng lực tháo lắp tháo lắp súng AK | 6 | 37.5 | |
Năng lực bắn đạn thật | 6 | 37.5 | |
2.2. | Nhóm năng lực đảm bảo an toàn về người và vũ khí trang bị | ||
Năng lực đảm bảo an toàn tính mạng con người | 9 | 56.2 | |
Năng lực bảo quản vũ khí trang bị | 7 | 43.7 |
Qua kết quả thu được ở bảng 2.6 ta thấy: Giảng viên đã liệt kê được khá đa dạng những năng lực họ thực hiện đánh giá cho sinh viên. Những năng lực này cũng đã phản ánh được vào những năng lực cơ bản của môn học. Tuy nhiên, số lượng giảng viên tiến hành đánh giá từng năng lực cụ thể cho sinh viên thì không nhiều. Có 3 năng lực được giảng viên tập trung đánh giá ở sinh viên nhiều nhất là “NL đảm bảo an toàn tính mạng con người”, “NL ngắm bắn”, , “NL bảo quản vũ khí trang bị” thì cũng chỉ đạt 8 - 9 ý
kiến (tương ứng với 50 % - 56.2 % số người được hỏi). Ở các năng lực khác, con số này đều thấp dưới 37% số ý kiến được hỏi. Điều này cho thấy trên thực tế, giảng viên đã thực hiện đánh giá năng lực quân sự cho sinh viên trong quá trình dạy học nhưng số lượng thực hiện chưa nhiều.
2.3.2.2. Thực trạng thực hiện mục tiêu đánh giá KQHT của sinh viên theo tiếp cận năng lực
Mục tiêu đánh giá KQHT có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình đánh giá, bởi mục tiêu sẽ quyết định đến nội dung, hình thức, phương pháp đánh giá. Xác định mục tiêu đánh giá như thế nào sẽ xây dựng nội dung, lựa chọn phương pháp, hình thức đánh giá tương ứng với nó như thế.
Để tìm hiểu xem giảng viên thường đánh giá những mục tiêu nào trong quá trình đánh giá KQHT môn học, chúng tôi đưa ra câu hỏi số 6 phụ lục 1 và câu hỏi số 7 phụ lục 2 với 5 mức độ lựa chọn: 5 - rất thường xuyên; 4 - thường xuyên, 3 - thỉnh thoảng, 2 - ít khi, 1 - không bao giờ.
* Ý kiến giảng viên
Bảng 2.7. Ý kiến giảng viên về thực trạng thực hiện mục tiêu đánh giá
Các mục tiêu | Mức độ | Tổng điểm |
X | TB | |||||
5 | 4 | 3 | 2 | 1 | |||||
1 | Nhớ kiên thức, kĩ năng môn học | 3 | 10 | 3 | 0 | 0 | 66 | 4.12 | 3 |
2 | Hiêu kiến thức, kĩ năng môn học | 6 | 8 | 2 | 0 | 0 | 68 | 4.25 | 2 |
3 | Vận dụng kiến thức, kĩ năng trong những tình huống quen thuộc | 8 | 8 | 0 | 0 | 0 | 72 | 4.5 | 1 |
4 | Vận dụng kiến thức, kĩ năng trong những tình huống mới, ít quen thuộc | 3 | 11 | 2 | 0 | 0 | 65 | 4.06 | 4 |
Từ kết quả khảo sát ta thấy, mục tiêu được người dạy quan tâm hàng đầu trong đánh giá KQHT đó là mục tiêu “vận dụng kiến thức, kĩ năng trong những tình huống quen thuộc”. Sau đó là các mục tiêu “hiểu kiến thức, kĩ năng môn học”. Giảng viên tiến hành đánh giá các mục tiêu này nằm giữa mức thường xuyên đến rất thường xuyên (với điểm trung bình là 4,25 đến 4,50). Mục tiêu “nhớ kiến thức, kĩ năng môn học” được xếp thứ 3 và đứng cuối cùng là mục tiêu “vận dụng kiến thức, kĩ năng trong những
tình huống mới, ít quen thuộc” .
* Ý kiến sinh viên
Bảng 2.8. Ý kiến sinh viên về thực trạng thực hiện mục tiêu đánh giá
Các mục tiêu | Mức độ | Tổng điểm | X | TB | |||||
5 | 4 | 3 | 2 | 1 | |||||
1 | Nhớ kiên thức, kĩ năng môn học | 80 | 80 | 20 | 0 | 0 | 784 | 4.30 | 1 |
2 | Hiêu kiến thức, kĩ năng môn học | 72 | 96 | 8 | 6 | 0 | 780 | 4.28 | 2 |
3 | Vận dụng kiến thức, kĩ năng trong những tình huống quen thuộc | 67 | 102 | 9 | 4 | 0 | 778 | 4.27 | 3 |
4 | Vận dụng kiến thức, kĩ năng trong những tình huống mới, ít quen thuộc | 64 | 100 | 10 | 8 | 0 | 766 | 4.20 | 4 |
Theo sinh viên, mục tiêu mà giảng viên đánh giá nhiều nhất là “nhớ kiến thức, kĩ năng của môn học”. Mục tiêu “hiểu kiến thức, kĩ năng môn học” được xếp ở vị trí thứ hai. Hai mục tiêu này có điểm trung bình từ 4,28 đến 4,3 (nằm trong khoảng từ mức thường xuyên đến rất thường xuyên). Tuy nhiên, ý kiến của sinh viên cũng có điểm tương đồng với giảng viên ở chỗ họ cũng xếp mục tiêu “vận dụng kiến thức, kĩ năng trong những tình huống mới, ít quen thuộc” ở vị trí cuối cùng (với điểm trung bình 4.2). Có thể so sánh điểm trung bình của giảng viên và sinh viên về mức độ thực hiện các mục tiêu đánh giá qua biểu đồ sau:
4.3
4.12
4.28 4.25
4.27 4.5
4.2
4.06
5
4.5
4
3.5
3
2.5
2
1.5
1
0.5
0
1 2 3 4
SV GV
Biểu đồ 2.1. Biểu đồ điểm trung bình của giảng viên và sinh viên về mức độ
thường xuyên thực hiện các mục tiêu đánh giá
Ghi chú:
1: Nhớ kiên thức, kĩ năng môn học 2: Hiểu kiên thức, kĩ năng môn học
3: Vận dụng kiến thức, kĩ năng trong những tình huống quen thuộc 4: Vận dụng kiến thức, kĩ năng trong những tình huống mới, ít quen
Qua biểu đồ trên ta thấy, trong quá trình đánh giá KQHT, giảng viên quan tâm đánh giá cho 3 mục tiêu đầu nhiều hơn, trong đó ưu tiên vào mục tiêu thứ ba là “Vận dụng kiến thức, kĩ năng trong những tình huống quen thuộc”.
Chúng tôi phỏng vấn giảng viên về việc thực hiện mục tiêu đánh giá trong giảng dạy học phần Quân sự chung và chiến thuật, kỹ thuật bắn súng tiểu liên AK. Đây là học phần quan trọng trong chương trình giáo dục quốc phòng - an ninh, học phần được chia thành 2 nội dung là: Quân sự chung; Chiến thuật và kỹ thuật bắn sung tiểu liên AK. Nội dung của môn học Kỹ thuật bắn sung tiểu liên AK thiên về thực hành, do vậy, mục tiêu mà giảng viên hướng tới là khả năng vận dụng, thực hành của người học trong các tình hướng thực tế. Tuy nhiên, trong đánh giá KQHT môn học này, giảng viên mới tập trung vào đánh giá các mục tiêu vận dụng ở mức độ thấp. Mục tiêu vận dụng ở mức độ cao tuy có tiến hành nhưng còn ít. Trao đổi về vấn đề này, thầy giáo H.X.T cho hay: Đây là môn học thực hành rất quan trọng, song do thời gian học tập tại Trung tâm ngắn, cơ sở vật chất, trang thiết bị còn nhiều hạn chế, đặc biệt địa điểm bắn đạn thật phải thuê của đơn vị 382 nên việc vận dụng kiến thức vào các tình hướng mới, ít quen thuộc của sinh viên ít có cơ hội được thực hiện, chủ yếu là tập với súng tại thao trường của Trung tâm. Do đó, khi đánh giá KQHT giảng viên thường chú trọng mục tiêu “Vận dụng kiến thức, kĩ năng trong những tình huống quen thuộc”.
Môn Kỹ thuật bắn súng tiểu liên AK gồm một bài kiểm tra viết, bài thi kết thúc môn gồm hai phần lý thuyết và thực hành. Do đó, phần lớn sinh viên được hỏi cho rằng mục tiêu đánh giá KQHT của môn học này là “Nhớ kiến thức, kĩ năng môn học” hay cao hơn là “Hiểu kiến thức, kĩ năng môn học”. Theo em L.T.S cho rằng: các thầy vẫn quan tâm nhiều đến đánh giá các tri thức lý thuyết của môn học. Giảng viên cũng đã thực hiện đánh giá các năng lực thực hành của sinh viên nhưng việc đánh giá vẫn nghiêng nhiều về kiến thức hơn là đánh giá sự vận dụng kiến thức, kĩ năng trong giải quyết tình huống.