16,000
14,000
12,000
10,000
8,000
6,000
4,000
2,000
0
2009 2010 2011
Tổng lợi nhuận trước thuế
Lợi nhuận tín dụng TDH
Biểu đồ 2.7: Tình hình lợi nhuận của Ngân hàng ACB – Huế giai đoạn 2009 – 2011.
(đơn vị tính: triệu đồng)
Từ bảng trên ta cũng có thể thấy được, mức độ đóng góp của tín dụng TDH vào tổng lợi nhuận trước thuế của Ngân hàng là rất lớn và ổn định qua các năm. Tuy rằng doanh số cho vay trung dài hạn chiếm tỷ trọng nhỏ hơn khá nhiều so với cho vay ngắn hạn nhưng nguồn lợi nhuận mà tín dụng TDH đem lại là lớn hơn rất nhiều so với tín dụng ngắn hạn bởi đây là nguồn vốn cho vay có thời hạn dài, rủi ro cao nên Ngân hàng đòi hỏi mức lãi suất cao. Cụ thể mức đóng góp của tín dụng TDH qua các năm 2009, 2010, 2011 lần lượt là 67.22%, 66.61%, 72.67%. Mức đóng góp của tín dụng TDH khá tương đồng trong 2 năm 2009, 2010 và có sự tăng mạnh lên thành 72.67% trong năm 2011 bởi trong năm này khi nền kinh tế hồi phục, lợi nhuận tín dụng TDH của Ngân hàng tăng lên một cách nhanh chóng. Điều này cho thấy hoạt động tín dụng trung dài hạn giữ một vai trò quan trọng trong hoạt động tại Ngân hàng TMCP Á Châu – chi nhánh Huế.
2.3 Đánh giá chất lượng hoạt động tín dụng trung dài hạn tại Ngân hàng TMCP Á Châu – Chi nhánh Huế giai đoạn 2009 – 2011.
2.3.1 Kết quả đạt được.
Hoạt động ngân hàng trong những năm qua gặp rất nhiều khó khăn do tác động của môi trường kinh tế, đặc biệt là cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu. Nhưng dưới sự chỉ đạo của ban lãnh đạo Ngân hàng cũng như những chính sách kịp thời của Ngân hàng Á Châu Việt Nam, cùng với sự nỗ lực của toàn thể cán bộ công nhân
viên, Chi nhánh đã tranh thủ được thời cơ để khắc phục những khó khăn và phấn đấu hoàn thành những kế hoạch đặt ra.
Ngân hàng luôn có phương hướng và phương châm hoạt động hiệu quả, hướng đầu tư vào những lĩnh vực tiềm năng, có khả năng sinh lời cao, tránh hiện tượng đầu tư tràn lan, không hiệu quả. Trong thời gian qua, Chi nhánh đã có nhiều cố gắng trong công tác tiếp thị các sản phẩm, dịch vụ tín dụng Ngân hàng đã triển khai công tác tiếp cận doanh nghiệp, hướng dẫn doanh nghiệp lập hồ sơ vay vốn hợp lý, đúng quy định nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp hoàn thành thủ tục xin vay nhanh chóng và thuận lợi. Ngân hàng từng bước gắn mình với doanh nghiệp qua vai trò tư vấn. Bên cạnh đó là việc tạo lập các mối quan hệ với các cấp ủy, chính quyền địa phương cơ quan chức năng trong việc cho vay, thu nợ, xử lý nợ quá hạn…
2.3.1.1 Đánh giá chất lượng tín dụng trung dài hạn tại Ngân hàng TMCP Á Châu – Chi nhánh Huế theo các chỉ tiêu định tính.
Thủ tục cho vay đơn giản phù hợp quy chế cho vay.
Chi nhánh vẫn từng bước giảm bớt mọi thủ tục đối với các nghiệp vụ nhưng vẫn đảm bảo độ an toàn tối đa. Các thủ tục, quy trình trong công tác thẩm định dự án, khả năng tài chính, năng lực pháp lý của khách hàng, về tài sản đảm bảo… được thực hiện tuần tự, chuẩn xác và nhanh chóng nhằm đưa ra được quyết định hợp lý, vừa phục vụ khách hàng một cách tốt nhất vừa phòng ngừa rủi ro.
Khách hàng được hướng dẫn làm thủ tục rất chu đáo, tận tình, ngoài ra còn được cán bộ tín dụng tư vấn cho hoạt động kinh doanh của khách hàng. Quá trình thẩm định một món vay diễn ra chặt chẽ hơn. Ví dụ, với mỗi món vay đều có từ hai cán bộ tín dụng trở lên thẩm định. Với những khoản vay lớn có tài sản thế chấp thì có cả lãnh đạo (Giám đốc, Phó giám đốc) cùng tham gia thẩm định, do đó công tác thẩm định mang tính khách quan hơn.
Việc thẩm định món vay không còn chỉ dựa trên tài sản thế chấp nữa mà còn dựa vào rất nhiều các chỉ tiêu: tính khả thi của dự án, tính chất pháp lý và năng lực pháp lý của khách hàng, tình hình tài chính của khách hàng, uy tín của khách hàng, tình hình thị trường và dự báo tương lai của sản phẩm dự án... Mọi món vay dù lớn hay nhỏ, ngắn hạn hay dài hạn đều có hợp đồng tín dụng ký kết theo sự thoả thuận giữa ngân hàng và khách hàng.
Sau khi cho vay, các cán bộ tín dụng rất có trách nhiệm trong công tác giám sát
sử dụng vốn vay đúng mục đích và thường xuyên đôn đốc thực hiện tốt nghĩa vụ trả nợ. Từng bước như vậy, đến nay Chi nhánh đã thu nợ được hầu hết những khoản nợ tồn đọng giai đoạn trước chuyển sang, tỷ trọng nợ quá hạn, nợ xấu ngày càng giảm xuống. Kết quả đó đã chứng minh tính thiết thực và hiệu quả trong công tác thực hiện quy chế cho vay của đội ngũ cán bộ tín dụng Ngân hàng TMCP Á Châu – chi nhánh Huế.
Các thủ tục giấy tờ làm việc đơn giản, nhanh chóng, chặt chẽ và không gây phiền hà cho khách hàng kết hợp tinh thần thái độ phục vụ chu đáo nhiệt tình của cán bộ tín dụng đã thực sự tạo cho khách hàng một tâm lý thoải mái, tạo niềm tin và hình ảnh tốt về Ngân hàng ACB – chi nhánh Huế.
Thời gian xét duyệt nhanh chóng, tốn kém ít chi phí.
Trước đây thời gian để xét duyệt một món vay không xác định thời gian, tùy thuộc vào phương án đầu tư, tài sản đảm bảo… của khách hàng, có những món vay khách hàng không chờ đợi được phải chuyển hướng vay khác. Đến nay, theo quy định mới của NHNN, thời hạn xét duyệt tối đa là 30 ngày kể từ sau khi nhận được hồ sơ xin vay vốn. Riêng Chi nhánh Ngân hàng ACB - Huế, đa số các món vay được xét duyệt cho vay chỉ trong vòng khoảng 4-5 ngày. Một số món vay đặc biệt như vay tiêu dùng của cán bộ công nhân viên bằng tín chấp thì chỉ diễn ra trong vòng một đến hai ngày do đó rất được các khách hàng ủng hộ và hưởng ứng.
Với một khách hàng lâu năm và truyền thống thì công tác thẩm định tốn ít thời gian và chi phí hơn để có được các thông tin có độ chính xác và tin cậy cao, do đó thời gian xét duyệt ngắn hơn nhưng với một khách hàng mới thì công tác thẩm định vất vả hơn, việc thu thập thông tin có nhiều hạn chế nên chi phí và thời gian cho thẩm định là cao hơn và việc tiếp xúc giữa khách hàng và ngân hàng có nhiều thủ tục phiền phức hơn. Tuy nhiên, cán bộ tín dụng Ngân hàng vẫn cố gắng hết sức để hoàn thành công việc, tạo mọi điều kiện thuận lợi để khách hàng có thể tiếp cận được nguồn vốn một cách nhanh chóng nhất. Điều đó đã thực sự tạo ấn tượng tốt cho khách hàng về chất lượng dịch vụ tín dụng của Ngân hàng và điều đó cũng cho thấy được tại sao Ngân hàng ACB có thể giữ chân được nhiều khách hàng “ruột” của mình đến thế trong những năm qua bất chấp sự cạnh tranh mạnh mẽ của rất nhiều Ngân hàng khác trên cùng địa bàn.
Ngoài ra, việc định giá tài sản thế chấp theo khung giá thị trường cũng tạo điều kiện cho khách hàng tiếp cận được nguồn vốn vay của Ngân hàng theo đúng
quy định cho vay, tiết kiệm được nhiều thời gian và chi phí liên quan.
Cơ sở vật chất, khoa học công nghệ ngân hàng luôn được nâng cấp và đổi mới.
Trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế, Ngân hàng TMCP Á Châu được đánh giá là Ngân hàng có cơ sở vật chất và ứng dụng mạng lưới tin học tốt nhất trong số các tổ chức tín dụng hoạt động tại đây, là một trong hai Ngân hàng đầu tiên đưa vào sử dụng hệ thống TCBS, một hệ thống được sử dụng theo dõi, quản lý nợ thông qua mạng lưới trực tuyến. Những năm qua, Ngân hàng ACB – chi nhánh Huế đã không ngừng tu bổ, nâng cấp cơ sở hạ tầng khang trang, lịch sự, từng bước trang bị lại và nâng cấp một loạt máy tính mới ở tất cả các phòng, đặc biệt là phòng kinh doanh và phòng kế toán. Nhờ có hệ thống này mà những công việc giấy tờ và quản lý trở nên gọn nhẹ, tiện lợi. Các thủ tục làm việc với khách trở nên nhanh chóng hơn, tiện lợi hơn tạo tâm lý thoải mái và tin tưởng ở khách hàng.
Việc ứng dụng các công nghệ hiện đại đã giúp cho Ngân hàng có thể tiếp cận được những thông tin phục vụ cho công tác thẩm định một cách tốt nhất, chuẩn xác nhất trên các mặt: thông tin về khách hàng, thông tin về dự án (tính hiệu quả của dự án, xu hướng phát triển đối với sản phẩm của dự án, thông tin về thị trường, giá cả, cạnh tranh…), thông tin quản lý đối với các khách hàng lớn vay vốn của nhiều tổ chức tín dụng. Độ tin cậy của các thông tin này là yếu tố trước tiên để cán bộ tín dụng ra quyết định cho vay và ảnh hưởng rất lớn đến độ an toàn của món vay. Ngoài ra, một cơ sở vật chất hiện đại, tiện lợi cũng có ảnh hưởng tốt đến tâm lý khách hàng và tạo ra hứng khởi cho chính cán bộ tín dụng thực hiện tốt công việc của mình.
Đội ngũ cán bộ tín dụng ngày càng được củng cố và nâng cao về trình độ, đạo đức và nghiệp vụ tín dụng.
Đào tạo và phát triển nhân viên là công tác được ưu tiên hàng đầu của Ngân hàng Á Châu. Mục tiêu là xây dựng và phát triển đội ngũ nhân viên thành thạo về nghiệp vụ, chuẩn mực trong đạo đức kinh doanh, chuyên nghiệp trong phong cách làm việc và nhiệt tình phục vụ khách hàng. Các nhân viên trong Ngân hàng Á Châu
– chi nhánh Huế được khuyến khích đào tạo chuyên sâu về nghiệp vụ chuyên môn phù hợp với chức năng công việc nhằm thực hiện tốt các dịch vụ đa dạng của ngân hàng và chuẩn bị cho những công việc có trách nhiệm cao hơn. Ngân hàng ACB đã xây dựng được Trung tâm đào tạo của ḿnh với hệ thống giáo tŕnh hoàn chỉnh bao
gồm tất cả các nghiệp vụ ngân hàng, các kiến thức pháp luật, tổ chức quản lư và
hoạt động theo ISO 9001:2000.
Nhân viên quản lý, điều hành của Ngân hàng ACB cũng được chú trọng đào tạo chuyên sâu về quản trị chiến lược, quản trị marketing, quản lý rủi ro, quản lý chất lượng, v.v… Ngân hàng cũng khuyến khích và thúc đẩy sự chia sẻ kỹ năng, tri thức giữa các thành viên trong Ngân hàng trên tinh thần một tổ chức không ngừng học tập để chuẩn bị tạo nền tảng cho sự phát triển liên tục và bền vững.
Về chủ trương, tất cả các nhân viên trong Ngân hàng ACB đều có cơ hội tham dự các lớp huấn luyện đào tạo nghiệp vụ theo nhu cầu công việc bên trong và bên ngoài ngân hàng, được ngân hàng tài trợ mọi chi phí.
* Đối với nhân viên mới tuyển dụng, Ngân hàng ACB tổ chức các khóa đào tạo liên quan như: Khóa học về Hội nhập môi trường làm việc, khóa học về các sản phẩm của ACB, các khóa nghiệp vụ và hướng dẫn sử dụng phần mềm TCBS liên quan đến chức danh nhân viên (tín dụng, giao dịch, thanh toán quốc tế, v.v…).
* Đối với cán bộ quản lý, ACB thường xuyên tổ chức các khóa học như sau: Các sản phẩm mới của ACB, khóa bồi dưỡng kiến thức quản lý chi nhánh, các khóa học về kỹ năng liên quan (kỹ năng bán hàng, kỹ năng đàm phán, kỹ năng giải quyết vấn đề, v.v…), các khóa học nâng cao và cập nhật, bổ sung kiến thức về nghiệp vụ: tín dụng nâng cao, phục vụ khách hàng chuyên nghiệp, v.v…
Ngoài ra, với sự hỗ trợ của các cổ đông nước ngoài, Ngân hàng ACB cũng đã tổ chức các khóa học trong nước đồng thời cử cán bộ tham gia các khóa đào tạo tại nước ngoài để nâng cao kiến thức.
Tại Ngân hàng ACB, các tổ chức như công đoàn, đoàn thanh niên và các tổ chức xã hội được tổ chức và hoạt động theo quy định của pháp luật. Ngân hàng ACB thường xuyên tổ chức các hoạt động sinh hoạt đoàn thể nhằm tạo không khí vui tươi, thân thiện cho nhân viên, thực hiện chế độ nghỉ mát, đồng phục cho nhân viên hằng năm. Ngoài ra, Ngân hàng ACB có những chính sách đãi ngộ nhân viên như xây căn hộ chung cư bán trả góp, tổ chức khám bệnh định kỳ và thành lập câu lạc bộ sức khỏe. Bên cạnh đó, Ngân hàng ACB còn đặc biệt chú trọng tổ chức các hoạt động cứu trợ xã hội, từ thiện, v.v... thông qua đó xây dựng tinh thần hỗ trợ, đùm bọc trong tập thể nhân viên Ngân hàng ACB với nhau và với xã hội.
2.3.1.2 Đánh giá chất lượng tín dụng trung dài hạn tại Ngân hàng TMCP Á Châu – Chi nhánh Huế theo các chỉ tiêu định lượng.
Doanh số huy động trung dài hạn của Ngân hàng đều tăng lên qua các năm với tốc độ khá nhanh, đặc biệt là năm 2010, tốc độ tăng lên đến 50%. Tỷ trọng doanh số huy động trung dài hạn cũng duy trì ở mức xấp xỉ 23% qua các năm. Điều này chứng tỏ Ngân hàng đã có một chiến lược lâu dài trong việc xây dựng cơ cấu nguồn vốn huy động nhằm phục vụ tốt nhất cho hoạt động của Ngân hàng. Trong doanh số huy động này, khoản mục Tiền gửi cá nhân chiếm tỷ trọng lớn nhất và có xu hướng ngày càng tăng lên, điều này cũng dễ hiểu bởi số lượng cá nhân trong xã hội luôn chiếm tỷ trọng lớn nhất và vì thế nhu cầu gửi tiền của họ cũng rất lớn. Mặc dù trong thời gian qua nền kinh tế có nhiều biến động lớn, sự cạnh tranh giữa các Ngân hàng là rất lớn, nhưng Ngân hàng vẫn có được sự tăng trưởng khá lớn về nguồn vốn huy động, điều đó đã cho thấy uy tín cao của Ngân hàng cùng công tác huy động vốn rất hiệu quả của Ngân hàng.
Doanh số cho vay trung dài hạn của Ngân hàng đã có sự sụt giảm khá mạnh trong năm 2010 (48.67%) và lại có sự phục hồi trong năm 2011 (25.84%). Điều này là do trong năm 2010, Ngân hàng đã thực hiện thắt chặt tín dụng theo chủ trương của NHNN nên DSCV đã giảm mạnh, đến năm 2011 nền kinh tế dần hồi phục và nhu cầu vay vốn của xã hội đã dần tăng lên. Với đặc thù của các khoản cho vay trung dài hạn là thời gian cho vay dài, rủi ro cao nên DSCV trung dài hạn luôn nhỏ hơn rất nhiều so với DSCV ngắn hạn, vì thế tỷ trọng doanh số cho vay trung dài hạn qua các năm luôn ở mức khá thấp (13-14%), cá biệt năm 2010, tỷ trọng này tăng lên đến 23% bởi do trong năm này, DSCV ngắn hạn đã giảm với tốc độ lớn hơn nhiều so với tốc độ giảm của DSCV trung dài hạn. Và cũng tương tự như doanh số huy động, doanh số cho vay ở khối KHCN chiếm tỷ trọng lớn hơn rất nhiều so với khối KHDN. Tuy nền kinh tế thời gian qua các nhiều biến động cùng sự cạnh tranh rất lớn từ các Ngân hàng khác nhưng Ngân hàng vẫn có thể duy trì được mức DSCV trung dài hạn ở mức khá cao và sự biến động của nó là hoàn toàn phù hợp với xu thể của xã hội, điều đó phần nào chứng tỏ được nỗ lực lớn trong việc ổn định hoạt động cho vay vốn của Ngân hàng, tạo tiền đề cho việc mở rộng quy mô tín dụng trong tương lai.
Doanh số thu nợ trung dài hạn của Ngân hàng đã có sự sụt giảm qua các năm với tốc độ giảm dần, mức sụt giảm năm 2010 là 39.20% và năm 2011 là 20.37%. Điều này có thể giải thích qua ba điểm: thứ nhất, nền kinh tế trong thời gian qua gặp nhiều biến động lớn, đặc biệt là thời gian sau cuộc khủng hoảng kinh tế lớn từ năm 2008, vì thế các khách hàng của Ngân hàng làm ăn kém hiệu quả, không tạo ra được nguồn trả nợ cho Ngân hàng; thứ hai, doanh số cho vay trung dài hạn trong các năm 2009, 2010 đều giảm khá mạnh so với giai đoạn trước do nền kinh tế trong thời kì khủng hoảng nhiều rủi ro tạo tâm lý e ngại cho nhà đầu tư; thứ ba, công tác thẩm định, kiểm tra và thu hồi các khoản nợ trung dài hạn của Ngân hàng không thực sự hiệu quả. Tuy vậy cũng cần thấy rằng Ngân hàng đã rất nỗ lực trong việc cải thiện những khuyết điểm đó, tốc độ giảm DSTN đã giảm dần qua các năm, từ sự sụt giảm đến 39.20% đã chỉ còn mức giảm 20.37% trong năm 2011. Và bởi doanh số cho vay ở khối KHCN lớn hơn rất nhiều so với khối KHDN nên doanh số thu nợ ở khối KHCN cũng chiếm một tỷ trọng lớn hơn rất nhiều so với khối KHDN.
Dư nợ trung dài hạn của Ngân hàng đã có sự tăng trưởng qua các năm với tốc độ tăng ngày càng lớn, năm 2010 có sự tăng trưởng 4.59% và đến năm 2011 đã lên đến 38.06%. Sở dĩ trong năm 2011 có sự tăng trưởng lớn như vậy là do trong năm này, nền kinh tế dần hồi phục, Nhà nước có nhiều chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp khôi phục và phát triển sản xuất. Tỷ trọng dư nợ trung dài hạn qua 3 năm là khá tương đương với tỷ trọng dư nợ ngắn hạn bởi các khoản cho vay trung dài hạn có thời hạn đáo hạn dài, vì thế tuy DSCV trung dài hạn thấp hơn khá nhiều so với DSCV ngắn hạn nhưng tính theo dư nợ (mang tính thời điểm) thì tỷ trọng của chúng vẫn tương đương nhau. Trong nền kinh tế cạnh tranh gay gắt như hiện nay, việc Ngân hàng có thể có được mức tăng trưởng dư nợ tín dụng ấn tượng như vậy đã cho thấy được nỗ lực rất lớn của Ngân hàng trong việc mở rộng quy mô tín dụng trung dài hạn, góp phần tạo thêm lợi nhuận cho Ngân hàng. Tuy vậy dư nợ trung dài hạn lớn sẽ là một thách thức lớn cho Ngân hàng, bởi đây là nguồn vốn cho vay có thời hạn dài, chứa đựng nhiều rủi ro, vì thế nó chỉ mang lại lợi nhuận lớn cho Ngân hàng chỉ khi công tác giám sát, đôn đốc thu hồi nợ được thực hiện một cách nhanh chóng và hiệu quả.
Nợ quá hạn trung dài hạn của Ngân hàng có sự sụt giảm nhẹ vào năm 2010 với mức giảm 17.87%, và có sự tăng nhẹ ở mức 13.84% ở năm 2011. Điều này là do các khoản vay vốn trung dài hạn có thời hạn đáo hạn dài và nền kinh tế trong thời gian qua có nhiều biến động lớn, dẫn đến sự biến động từ tình hình kinh doanh và nguồn trả nợ của khách hàng. Mặc dù nợ quá hạn ngắn hạn năm 2011 đã có sự giảm xuống khá mạnh (36.36%) trong khi nợ quá hạn trung dai hạn lại tăng lên (13.84%), điều này đã làm cho tỷ trọng nợ quá hạn trung dài hạn năm 2011 tăng lên rất nhanh, chiếm đến 53.52% trong tổng nợ quá hạn (trong khi con số này chỉ xấp xỉ khoảng 40% trong các năm 2009, 2010). Mặc dù điều này chịu tác động không nhỏ của tình hình biến động trong nền kinh tế nhưng cũng cho thấy rằng công tác quản lý, thu hồi các khoản nợ trung dài hạn của Ngân hàng là chưa thực sự tốt so với công tác quản lý các khoản nợ ngắn hạn. Tuy nhiên nhìn tổng quát, ta thấy được tỷ trọng nợ quá hạn so với tổng dư nợ nói chung và tỷ trọng nợ quá hạn TDH so với tổng dư nợ nói riêng luôn ở mức rất thấp trong 3 năm, đối với tỷ trọng nợ quá hạn so với tổng dư nợ thì mức cao nhất chỉ là 0.46% vào năm 2009 và con số này là 0.18% đối với tỷ trọng nợ quá hạn TDH so với tổng dư nợ cũng vào năm 2009. Ðiều này đã cho thấy nỗ lực rất lớn và cũng rất hiệu quả của Ngân hàng trong công tác quản lý, thu hồi các khoản nợ nói chung và nợ trung dài hạn nói riêng, giảm thiểu tối đa rủi ro tín dụng, góp phần tăng lợi nhuận hoạt động tín dụng cho Ngân hàng, đóng góp rất lớn vào mục tiêu mà Ngân hàng đã đặt ra là duy trì tỷ trọng nợ quá hạn so với tổng dư nợ dưới 3%.
Nợ xấu trung dài hạn của Ngân hàng có sự sụt giảm 35.27% vào năm 2010 nhưng lại tăng lên rất nhanh với mức tăng đến 116.17% vào năm 2011. Như vậy có thể thấy qua 3 năm nợ xấu TDH biến động cùng chiều với nợ quá hạn TDH, tuy nhiên mức biến động của nợ xấu TDH là lớn hơn nhiều so với nợ quá hạn TDH. Năm 2010 mức giảm nợ xấu TDH là nhiều nợ quá hạn TDH chứng tỏ công tác quản lý, thu hồi nợ xấu (các khoản nợ nhóm 3 ,4 ,5) của Ngân hàng là hiệu quả trong khi điều này là ngược lại vào năm 2011, khi nợ xấu TDH lại tăng lên rất nhanh so với nợ quá hạn TDH. Sự không ổn định này phần lớn là do tác động từ môi trường kinh tế xã hội vốn gặp rất nhiều biến động lớn trong thời gian qua, ảnh hưởng lớn đến tình hình kinh doanh và nguồn trả nợ của khách hàng, mặt khác cũng phải kế đến vai trò quản lý các khoản nợ quá hạn của Ngân hàng không thực sự tốt, đặc biệt là các khoản nợ nhóm 3, 4, 5. Điều
này dẫn đến tỷ trọng nợ xấu so với nợ quá hạn qua 3 năm của Ngân hàng luôn ở mức khá cao, mức cao nhất lên đến 94.42% vào năm 2011. Và góp phần lớn vào các khoản nợ xấu TDH này là các khoản nợ xấu TDH đến từ khối KHDN khi toàn bộ nợ quá hạn của khối KHDN qua 3 năm đều trở thành nợ xấu, tuy rằng khối KHDN là đối tượng chịu nhiều ảnh hưởng hơn cả trong nền kinh tế nhiều biến động nhưng điều này cũng cho thấy công tác quản lý tín dụng đối với khối KHDN là chưa tốt. Nhìn một cách tổng quát, tuy tỷ trọng nợ xấu so với nợ quá hạn là cao nhưng ta có thể thấy tỷ trọng nợ xấu so với tổng dư nợ nói chung và nợ xấu TDH so với tổng dư nợ nói riêng luôn ở mức rất thấp qua 3 năm, các con số đó ở mức cao nhất chỉ là 0.3% và 0.11% vào năm 2009. Điều này chứng tỏ công tác quản lý, thu hồi các khoản nợ quá hạn, nợ xấu nói chung và nợ xấu TDH nói riêng của Ngân hàng đạt hiệu quả rất cao, giảm thiểu nguy cơ mất vốn, góp phần tăng lợi nhuận cho Ngân hàng, đóng góp rất lớn vào mục tiêu mà Ngân hàng đã đặt ra là duy trì tỷ trọng nợ xấu so với tổng dư nợ dưới 1%.
Lợi nhuận tín dụng trung dài hạn của Ngân hàng có sự tăng lên qua các năm với tốc độ ngày càng tăng dần, năm 2010 tốc độ tăng là 9.01% và con số đó là 20% vào năm 2011. Dù nền kinh tế thời gian qua gặp nhiều biến động cùng sự cạnh tranh rất lớn từ các Ngân hàng khác nhưng Ngân hàng vẫn có sự tăng trưởng lợi nhuận như vậy đã cho thấy hoạt động của Ngân hàng đạt hiệu quả cao, đặc biệt là hoạt động tín dụng trung dài hạn, ta có thể thấy được điều đó qua mức đóng góp của tín dụng trung dài hạn vào tổng lợi nhuận trước thuế của Ngân hàng, mức này qua 3 năm đều rất cao và ổn định, từ 67 – 73%. Bên cạnh đó tỷ suất sinh lời của tín dụng TDH của luôn ở mức cao qua 3 năm, từ 5.5 – 6.5%. Từ đó có thể thấy được vai trò to lớn của tín dụng trung dài hạn trong hoạt động của Ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng của Ngân hàng nói riêng.
Bảng 2.9: Xu hướng biến động các chỉ tiêu và khuyến cáo đề xuất.
Chỉ tiêu | Xu hướng biến động | Khuyến cáo đề xuất | |
1 | Doanh số huy động TDH | Tăng trưởng nhanh | Tiếp tục phát huy để có thể huy động được nhiều nguồn vốn, tạo điều kiện thuận lợi để mở rộng tín dụng trong tương lai. |
2 | Doanh số cho vay TDH | Biến động lớn | Tăng cường hoạt động marketing ngân hàng, đa dạng hóa các loại khách hàng, thực hiện chiến lược khách hàng hợp lý. |
3 | Doanh số thu nợ TDH | Sụt giảm chậm | Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát trong và sau khi cho vay, cải thiện công tác quản lý nợ, theo dõi và thu hồi nợ. |
4 | Dư nợ TDH | Tăng trưởng khá nhanh | Nâng cao hơn nữa chất lượng thẩm định dự án đầu tư, dự báo các rủi ro trong tín dụng trung dài hạn và có biện pháp phòng ngừa hữu hiệu. |
5 | Nợ quá hạn TDH | Biến động nhẹ | Tăng cường hơn nữa công tác thu hồi nợ quá hạn, giải quyết nợ quá hạn, góp phần nâng cao chất lượng tín dụng của ngân hàng. |
6 | Nợ xấu TDH | Biến động khá lớn | Tăng cường hơn nữa công tác thu hồi nợ xấu, giải quyết nợ xấu, góp phần nâng cao chất lượng tín dụng của ngân hàng. |
7 | Lợi nhuận tín dụng TDH | Tăng khá nhanh | Tiếp tục phát huy hơn nữa để ngày càng đóng góp nhiều vào tổng lợi nhuận của ngân hàng, đóng góp vào sự phát triển chung của ngân hàng. |
Có thể bạn quan tâm!
- Đánh giá chất lượng tín dụng trung dài hạn tại ngân hàng thương mại cổ phần á châu - chi nhánh Huế - 1
- Đánh giá chất lượng tín dụng trung dài hạn tại ngân hàng thương mại cổ phần á châu - chi nhánh Huế - 2
- Kết Quả Hoạt Động Kinh Doanh Của Ngân Hàng Tmcp Á Châu – Chi Nhánh Huế Giai Đoạn 2009 – 2011.
- Doanh Số Chovay Theo Kỳ Hạn Của Ngân Hàng Acb – Huế Giai Đoạn 2009 – 2011.
- Đánh giá chất lượng tín dụng trung dài hạn tại ngân hàng thương mại cổ phần á châu - chi nhánh Huế - 6
Xem toàn bộ 56 trang tài liệu này.
2.3.2 Những hạn chế và nguyên nhân.
2.3.2.1 Những hạn chế.
Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động tín dụng trung dài hạn của Ngân hàng TMCP Á Châu - Chi nhánh Huế trong thời gian qua vẫn còn bộc lộ một số hạn chế như:
- Tình trạng nợ xấu của các khoản tín dụng trung dài hạn vẫn còn và có xu hướng tăng lên. Điều này ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng trung dài hạn của ngân hàng, tăng rủi ro của các khoản tín dụng; và về lâu dài sẽ gây ảnh hưởng đến tình hình hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
- Hạn mức phán quyết tín dụng hiện tại của Chi nhánh vẫn còn ở mức thấp, những khoản tín dụng có hạn mức trên 150 triệu thì bắt buộc Chi nhánh phải trình cho hội sở phê duyệt. Điều này làm hạn chế tính chủ động của chi nhánh, gây khó khăn cho khách hàng trong việc tiếp cận các nguồn vốn vay trung dài hạn của ngân hàng.
- Việc mở rộng đối tượng khách hàng của ngân hàng còn gặp nhiều hạn chế, chủ yếu là những khách hàng cũ đã có quan hệ lâu dài với ngân hàng.
2.3.2.2 Những nguyên nhân.
Tại thời điểm ngân hàng Á Châu - Chi nhánh Huế ra đời vào năm 2005 thì đã có sự xuất hiện của nhiều ngân hàng lớn khác trên địa bàn như Ngân hàng Vietcombank, Viettinbank, Agribank...Vì thế, sự cạnh tranh giữa các ngân hàng trên địa bàn là rất gay gắt, thêm vào đó là một số khách hàng đã có mối quan hệ làm ăn lâu dài với các ngân hàng khác nên việc tìm kiếm khách hàng và mở rộng thị phần của ngân hàng là rất khó khăn.
Hoạt động marketing ngân hàng đã được Chi nhánh thực hiện nhưng hiệu quả vẫn chưa đạt được như mong muốn, ngân hàng chưa thực sự có các chính sách marketing cho những sản phẩm tín dụng trung dài hạn.
Ngân hàng chưa có chiến lược phù hợp mở rộng cho vay trung dài hạn. Công việc cho vay còn bị động, phụ thuộc vào khách hàng. Ngân hàng chỉ thẩm định những dự án do khách hàng đưa đến để xin vay mà chưa chủ động tham mưu với khách hàng để tạo ra những dự khả thi để mở rộng cho vay.
Việc phân tích tính khả thi của dự án chủ yếu dựa vào kết quả phân tích đánh giá trên phương diện tài chính của dự án nhưng nguồn số liệu dùng để phân tích chủ
yếu được lấy từ các báo cáo tài chính của đơn vị gửi tới với độ tin cậy không cao,
chưa được cơ quan kiểm toán xác nhận.
Do ảnh hưởng của cuộc suy thoái kinh tế gây nên nhiều biến động thị trường trong nước. Điều này ảnh hưởng đến đời sống thường ngày của người dân cũng như hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, do đó cũng gây ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động tín dụng của ngân hàng.
Môi trường pháp lý bộc lộ nhiều điểm chưa thật sự đồng bộ giữa các văn bản luật, cơ quan ban ngành liên quan, đặc biệt là các văn bản liên quan tới cơ chế cho vay. Các quy định có tính pháp lý của nhà nước liên quan đến tín dụng trung dài hạn còn thiếu và chưa đồng bộ gây khó khăn cho cả ngân hàng và doanh nghiệp trong việc nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn.