Bản Chất Pháp Lý Của Đại Diện Theo Pháp Luật Của Doanh Nghiệp

quyết định mà các giám đốc thường đưa ra cũng được xác định là Giám đốc [118, Điều 155].

Tại Mỹ, các tiểu bang có các đạo luật công ty riêng, song các tiêu chuẩn tối thiểu cho việc mua bán cổ phần trên thị trường chứng khoán được liên bang quy định. Hầu hết, các tập đoàn của Mỹ được thành lập theo Luật tổng công ty bang Delaware. “Delaware là sự lựa chọn hàng đầu cho các doanh nghiệp giao dịch công khai, dẫn đến nhiều tranh luận cho rằng Delaware đã dẫn đầu một cuộc chay đua đến ngọn nguồn trong Luật doanh nghiệp” [30, tr697]. Bên cạnh đó, 24 tiểu bang tuân theo Đạo luật công ty cổ phần kinh doanh kiểu mẫu, một mô hình được Ủy ban pháp luật doanh nghiệp thuộc Hiệp hội luật sư của Mỹ soạn thảo. Luật doanh nghiệp bang Delaware không khác pháp luật Anh khi quy định: HĐQT (Board of director) và các giám đốc (Director) có quyền đại diện cho doanh nghiệp. Các giám đốc công ty phải chịu trách nhiệm đối với việc quản lí kinh doanh và những việc của công ty [122, Điều 141]. Các công ty phải có người đại diện như là thư ký đăng ký (Registerde agent) với cơ quan quản lí doanh nghiệp như là một địa chỉ nhận thông báo, giấy tờ liên quan đến doanh nghiệp. Thư ký đại diện phải thỏa mãn điều kiện phải cư trú (đối với cá nhân) hoặc có giấy phép kinh doanh, văn phòng kinh doanh hoạt động thường xuyên (đối với công ty) tại tiểu bang Delaware [122, Điều 132].

Tương tự như Anh và Mỹ, BLDS Nga năm 1996, sửa đổi bổ sung năm 2003 không ghi nhận người ĐDTPL của pháp nhân. Tại Điều 53, BLDS Nga cho rằng: Pháp nhân thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự của mình thông qua các cơ quan của pháp nhân, là những cơ quan có thẩm quyền được xác định theo quy định của pháp luật hoặc Điều lệ pháp nhân [115, Điều 53]. Trong các quy định về cơ cấu tổ chức và loại hình công ty không đề cập đến ĐDTPL. Có lẽ, theo quan điểm việc thực hiện quyền của người quản lý được hiểu là hành vi trực tiếp thực hiện năng lực pháp lý của pháp nhân, cho nên thuật ngữ người ĐDTPL là không chính xác về mặt pháp lý [91]. Rò ràng, soi chiếu vào các lý thuyết bản chất pháp lý của công ty, có thể thấy rò bóng dáng lý thuyết tổ chức ảnh hưởng quy định của pháp luật.

Pháp luật Nhật Bản không nằm ngoài cách tiếp cận đó khi quy định ĐDTPL chính là người quản lý công ty trong Luật Công ty Nhật Bản năm 2006: “người quản

lý có quyền thực hiện bất kỳ và tất cả các hành vi pháp lý và phi tư pháp nhân danh công ty liên quan đến hoạt động kinh doanh của mình”[66, Điều 11.1].

Tổng hợp lại, có thể thấy, các nước tiếp cận khái niệm ĐDTPL của doanh nghiệp từ các góc độ khác nhau. Trong đó có một số quốc gia không xem quyền đại diện là quyền lực độc lập trong quản trị doanh nghiệp nên không xây dựng khái niệm độc lập trong pháp luật, một số quốc gia như Việt Nam, Trung Quốc thì ngược lại.

Thứ nhất, cần khẳng định, dù cách tiếp cận khác nhau nhưng các quốc gia có điểm chung trong việc khẳng định sự tồn tại của ĐDTPL của công ty có tư cách pháp nhân. Người đại diện là cần thiết để thay mặt doanh nghiệp giao kết hợp đồng, thực hiện vai trò là nguyên đơn hoặc bị đơn trước Tòa án, thực hiện các quyền năng liên quan đến sở hữu tài sản. Xét riêng về tư cách pháp nhân, BLDS Việt Nam quy định tổ chức là pháp nhân phải có đủ 4 điều kiện: có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, được thành lập hợp pháp, có tài sản riêng và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của chính pháp nhân (trách nhiệm hữu hạn về tài sản), nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật. Từ góc độ lí thuyết, không nên nhầm lẫn giữa tư cách pháp nhân với chế độ trách nhiệm hữu hạn. “Trách nhiệm hữu hạn là hệ quả hợp lý của sự tồn tại nhân cách riêng biệt của pháp nhân. Tuy nhiên có trường hợp ngoại lệ là các chủ thể thành lập pháp nhân thỏa thuận loại trừ tính chịu trách nhiệm hữu hạn về tài sản của pháp nhân do những đặc trưng trong ngành nghề kinh doanh. Một công ty có thể có tư cách pháp nhân mà không bị giới hạn trách nhiệm về tài sản bằng cách ký một bản ghi nhớ và nộp nó cho Cơ quan đăng ký công ty"[87].

Một pháp nhân khi thực hiện năng lực pháp luật trao cho họ cũng cần có người đại diện hoạt động. Do vậy, ĐDTPL được tạo ra, cần thiết và bắt buộc để đảm bảo chức năng hoạt động của pháp nhân và là hiện thân của pháp nhân. Khi nhân danh pháp nhân trong giao dịch với bên thứ ba, ĐDTPL của pháp nhân sẽ làm cho bên thứ ba cảm thấy an tâm, có sự chắc chắn về mặt pháp lý khi một người có đủ thẩm quyền được công bố trong quá trình giao dịch đảm bảo về tính hợp lệ của các thoả thuận đã và đang hình thành với pháp nhân.

Thứ hai, lí giải nguyên nhân của sự không đồng nhất trong việc hình thành và quy định khái niệm ĐDTPL của doanh nghiệp giữa các quốc gia cần xem xét bối cảnh lịch sử quy định về luật công ty và lý thuyết pháp lý chủ đạo ảnh hưởng đến pháp luật quốc gia đó. Có nhiều lý thuyết pháp lý có liên quan bản chất pháp lý của công ty với cách tiếp cận đa dạng như đã phân tích tại mục

1.1 của phần tổng quan. Có thể khẳng định có nhiều lý thuyết pháp lý liên quan đến bản chất pháp lý của công ty song không có một lý thuyết nào chiếm vai trò chủ đạo và giải thích bao trùm được tất cả các vấn đề. Trong những năm cuối thế kỉ 19, các cuộc thảo luận của các nhà luật học người Đức xoay quanh hai chủ đề chính: pháp nhân là thực thể hư cấu được pháp luật trao cho năng lực pháp luật và cần có người đại diện để thực hiện tư cách chủ thể với bên ngoài theo quan điểm của lý thuyết giả tưởng (Fiction Theory) [69, tr907] hay là một chủ thể tồn tại trên thực tế, có ý chí riêng và có khả năng hành động thông qua các cơ quan của nó theo quan điểm của lý thuyết hiện thực (Realistic Theory). Tuy nhiên theo lý thuyết hiện thực, các cơ quan của pháp nhân – lãnh đạo của pháp nhân không được xem như người đại diện của pháp nhân mà chỉ là một thành phần cấu tạo nên tổ chức, ràng buộc trách nhiệm của pháp nhân với bên thứ ba [75, tr4-6]. Đầu thế kỷ XX, lý thuyết này được tiếp nhận các nước Anh, Mỹ và có ảnh hưởng mạnh mẽ đến pháp luật công ty các nước. Cùng với sự tiếp nhận trên cơ sở nền tảng hai trường phái đó, xuất hiện các lý thuyết pháp lý công ty ủng hộ hai quan điểm trên. Lý thuyết nhượng bộ, lý thuyết biểu tượng (Symbol Theory), lý thuyết mục đích (Purpose Theory) [9,tr 166], [75] cùng có quan niệm chung với lý thuyết giả tưởng ở điểm: công ty là một pháp nhân hay thực thể nhân tạo không tồn tại thực tế mà chỉ được xác định trong luật. Sự tồn tại của pháp nhân với năng lực pháp luật hoàn toàn do pháp luật trao cho. Do đó, công ty thiếu vắng ý chí và khả năng để hành động một cách độc lập. Công ty chỉ có thể hành động thông qua người đại diện pháp lý, chủ thể có thẩm quyền và địa vị pháp lý được quy định rò trong luật. Công ty không có khả năng gánh chịu các trách nhiệm hình sự mà các cá nhân phải chịu trách nhiệm liên quan đến hành vi vi phạm của họ [75, tr7]. Có thể thấy các học giả ủng hộ lý thuyết này cho rằng tư cách pháp nhân có thể gán cho bất kỳ nhóm nào có khả

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 207 trang tài liệu này.

năng biểu đạt ý chí tập thể để bảo vệ lợi ích hợp pháp chứ không phải là dựa trên sự tồn tại của ý chí thực của chủ thể. Khả năng biểu đạt ý chí đó được thể hiện bằng phương tiện: người đại diện của chính pháp nhân đó.

Ủng hộ trường phái hiện thực (Realistic Theory) là các lý thuyết: lý thuyết tổ chức (Organic Theory) phát triển vào những năm cuối thế kỷ XIX [75, tr6]. Theo lý thuyết này, công ty tồn tại trên thực tế, có ý chí riêng của mình và hành động thông qua các cá nhân là các cơ quan của nó, tương tự như con người tự nhiên. Hay nói cách khác, các cơ quan của công ty, cụ thể là HĐQT và ĐHĐCĐ, khi hành động trong giới hạn thẩm quyền do Điều lệ công ty quy định, không chỉ được coi là đại diện của công ty mà còn được coi là chính công ty đang hành động. Một lý thuyết khác là lý thuyết hợp đồng (The Nexus of contract) được ra đời khẳng định công ty được tạo thành từ tập hợp các mối quan hệ từ hợp đồng giữa các thành viên thành lập công ty [75, tr7].

Đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp theo pháp luật doanh nghiệp Việt Nam hiện nay - 7

Các lý thuyết giả tưởng được các nước lớn của hệ thống Luật Châu Âu lục địa (Civil Law) như Đức, Pháp chấp nhận và trở thành cơ sở lý luận của pháp luật về pháp nhân. Minh chứng điều này thể hiện rò qua các quy định các công ty, hiệp hội bắt buộc phải đăng ký với cơ quan Nhà nước và tư cách pháp nhân chỉ có được sau khi hoàn thành thủ tục đăng ký. Do đó, khái niệm ĐDTPL tồn tại bởi cần có một người đại diện để “hiện thân” doanh nghiệp làm việc với người thứ ba và chính quyền xuất phát từ vai trò quan trọng về mặt kinh tế và xã hội của nó. Tuy nhiên, sự giải thích và thuyết phục của lý thuyết giả tưởng không thuyết phục được các quốc gia Anh, Mỹ [75, tr11]. Các quốc gia này đánh giá cao lý thuyết hiện thực, do đó không có khái niệm ĐDTPL trong luật công ty các nước Anh – Mỹ. Theo đó, công ty là sự tồn tại của một chủ thể tự nhiên, được thành lập bởi các cổ đông, do đó, nó có sự tách biệt với cổ đông, có ý chí và mục đích rò ràng. Ý chí đó được thể hiện thông qua vai trò của HĐQT với tư cách “đầu não” của con người này. Trong trường hợp công ty có người quản lý thì người quản lý sẽ có quyền đại diện dựa trên mối quan hệ ủy thác. Từ đó, khi tìm hiểu về khái niệm đại diện của công ty trong luật Anh, Mỹ thường được liên hệ tới mối quan hệ đại diện theo ủy thác với các quy định và đặc điểm, hình thức đại diện được xác định theo thuật ngữ “Agency law” (pháp luật về đại diện).

2.2.Bản chất pháp lý của đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp

2.2.1. Đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là đại diện do pháp luật quy định, không thể nhầm lẫn với quyền đại diện của các chủ thể khác trong doanh nghiệp

Tính chất đương nhiên của đại diện của doanh nghiệp được hiểu là sự tồn tại bắt buộc phải có, được quy định trong LDN như là yêu cầu của Nhà nước đối với doanh nghiệp. Quy định này xuất phát từ vai trò thiết yếu, là hiện thân của doanh nghiệp, sự tồn tại bắt buộc để đảm bảo chức năng hoạt động của doanh nghiệp. Người ĐDTPL là cá nhân đại diện cho doanh nghiệp thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch của doanh nghiệp, đại diện cho doanh nghiệp với tư cách nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài, Tòa án và các quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật. Do đó, thẩm quyền đại diện này là thẩm quyền đại diện đương nhiên, bắt buộc phải có, nhằm thực hiện các quyền mà doanh nghiệp có. Đây là nhân tố thực hiện các hành vi pháp lý đối với bên ngoài của doanh nghiệp. Người ĐDTPL nhân danh doanh nghiệp nên các giao dịch không được người ĐDTPL xác lập thì không có giá trị ràng buộc trách nhiệm của doanh nghiệp.

Nếu xét đến bản chất của doanh nghiệp tiếp cận từ lý thuyết giả tưởng (Fiction Theory) được chấp nhận rộng rãi ở các nước theo hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa , vai trò người đại diện của doanh nghiệp ở đây là một thuộc tính tự nhiên bởi xét đến cùng, hoạt động của doanh nghiệp là hoạt động của các cá nhân những người đại diện. Khi các công ty được thành lập thì cần gán ý chí của thể nhân vào nhóm để thể hiện được ý chí của nhóm đó. Có nhiều trường hợp, khi có nhiều thể nhân đại diện cho nhóm thì các quyết định tập thể để đạt được lợi ích chung, buộc phải ra quyết định theo cơ chế biểu quyết với tỷ lệ số phiếu thuận. Đặc trưng này được thể hiện rò trong quy định của LDN, Điều lệ và quy chế nội bộ của các doanh nghiệp. Đặt trong trường hợp, tiếp cận theo lý thuyết hiện thực (Realistic Theory), lý thuyết tổ chức (Organic Theory), công ty là một thực thể riêng biệt tách rời với cổ đông thành lập và chỉ có thể hoạt động thông qua thể nhân. Những hành động của các thể nhân thuộc Ban lãnh đạo cấp cao cũng là hành động của công ty, do đó, tính chất đại diện đầy đủ ở đây không thể bàn cãi.

Xuất phát từ tính chất đại diện theo luật định với thẩm quyền đầy đủ, có thể thấy rò bản chất quyền đại diện này khác với các quyền đại diện của các chủ thể khác trong doanh nghiệp như: đại diện thương mại (đại lý), người quản lý, người đại diện theo ủy quyền hay nhân viên của công ty khi thực hiện hoạt động nhân danh doanh nghiệp.

* Người ĐDTPL của doanh nghiệp với người quản lý điều hành doanh nghiệp

Tiếp cận từ góc độ lý thuyết giả tưởng với vai trò độc lập của người ĐDTPL cho thấy sự khác biệt với người quản lý doanh nghiệp. Trong công ty, với sự tách biệt và phân bổ quyền lực: quyền sở hữu, quyền đại diện, quyền quản lý và quyền kiểm soát, các chủ thể nắm giữ quyền lực khác nhau thì chức năng và vai trò cũng khác nhau. Quyền sở hữu doanh nghiệp thuộc về các cổ đông/thành viên. Người quản lý doanh nghiệp là người có trách nhiệm thực hiện các hoạt động quản lý doanh nghiệp như tổ chức triển khai giải pháp do HĐQT chỉ đạo, tổ chức kế hoạch kinh doanh và kế hoạch đầu tư hàng năm của doanh nghiệp. Quyền đại diện khác với quyền quản lý và quyền kiểm soát trong quyền lực của doanh nghiệp. Có thể thấy người nắm quyền đại diện là người luôn tồn tại cùng với công ty, được cử ra để tiếp xúc, giao dịch với những người bên ngoài công ty (thuế gửi thông báo, tòa gửi giấy triệu tập, nhà cung cấp đòi nợ) và luôn ràng buộc công ty vào hoạt động của họ khi nhân danh công ty. “Người quản lý là người được các cổ đông ủy quyền coi sóc công ty. Người điều hành thuần túy là người chỉ đạo thực hiện công việc kinh doanh, là Giám đốc hay Tổng giám đốc, có thể là người làm thuê theo hợp đồng lao động và được trả lương” [6;tr135]. Trong doanh nghiệp, người đại diện có thể đứng vị trí độc lập nhưng cũng có thể đồng thời là người quản lý tùy theo Điều lệ công ty quy định.

Xem xét từ mô hình đại diện độc lập như trong quy định của pháp luật Việt Nam, rò ràng trong doanh nghiệp có sự phân tách thành các quyền lực lớn: quyền đại diện, quyền quản lý, quyền sở hữu và quyền kiểm soát. Theo đó, LDN và Điều lệ doanh nghiệp quy định rất rò về các cơ quan nắm các quyền lực đó, thẩm quyền, cơ chế hoạt động có kiểm soát lẫn nhau và sự ràng buộc quyền lực công bằng giữa các cơ quan. Ví dụ như LDN Việt Nam quy định trong hình thức CTCP, người ĐDTPL có quyền lực đại diện thường là Chủ tịch

HĐQT hoặc TGĐ/Giám đốc, trong khi đó, quyền quản lý được chia sẻ giữa HĐQT với Tổng giám đốc/Giám đốc. Quyền sở hữu thuộc ĐHĐCĐ và quyền kiểm soát được giao cho BKS. Người ĐDTPL thường giữ các chức vụ quản lý trong doanh nghiệp nhưng vẫn được gọi tên thành một chức danh riêng biệt. Đặc biệt trong bối cảnh kinh tế Việt Nam với phần lớn là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, có đặc trưng là doanh nghiệp còn mang tính chất quản trị liên kết giữa các thành viên trong gia đình [35; tr163] thì chủ sở hữu phần vốn góp đồng thời là người quản lý, người đại diện của doanh nghiệp. Trong trường hợp này, khi chủ sở hữu đồng thời là người quản lý, người ĐDTPL của doanh nghiệp thì có thể xác định ngay đó là người có quyền đại diện đồng thời có quyền quản lý.

* Người ĐDTPL của doanh nghiệp khác với người đại diện theo ủy quyền.

Người đại diện theo ủy quyền có thẩm quyền xuất phát từ hợp đồng ủy quyền cho phép họ tiến hành các hành vi cụ thể trong hoạt động của doanh nghiệp khi việc đó không trái với quy định trong Điều lệ, Quy chế nội bộ của doanh nghiệp và pháp luật doanh nghiệp. Đây là các trường hợp như: người ĐDTPL ủy quyền cho các chức danh quản lý của doanh nghiệp (Phó Tổng giám đốc/Phó giám đốc, các Trưởng phòng, Giám đốc chi nhánh, Trưởng văn phòng đại diện) để thực hiện các công việc phù hợp với chuyên môn, kinh nghiệm của người quản lý hoặc khi người đại diện duy nhất của doanh nghiệp xuất cảnh, không thể thực hiện nhiệm vụ của mình. Do đó, phạm vi ủy quyền hoàn toàn bị giới hạn theo nội dung ủy quyền và cơ chế pháp lý giải quyết tranh chấp dựa trên hợp đồng ủy quyền.

* Người ĐDTPL của doanh nghiệp với nhân viên đại diện cho doanh nghiệp trong khi thực hiện phạm vi công việc được giao.

Các nhân viên đại diện cho doanh nghiệp thường thực hiện nhiệm vụ công việc được giao, ví dụ như: các nhân viên giao dịch trong ngân hàng, thu ngân trong siêu thị hay các nhân viên kinh doanh tại các công ty bảo hiểm hay đại lý bán ô tô. Điểm chung của các chủ thể này là đều phát sinh thẩm quyền dựa trên cơ chế đại diện do đó sẽ ràng buộc trách nhiệm của doanh nghiệp đối với bên thứ ba khi nhân danh doanh nghiệp thực hiện giao dịch. Tuy nhiên, có những điểm khác biệt như: nhân viên không phải là đại diện bắt buộc, được đăng ký theo pháp luật và có thẩm quyền đại diện đầy đủ nhân danh doanh nghiệp trước cơ quan nhà nước cũng như trong thủ tục tố tụng tại Tòa án. Nhân

viên thực hiện giao dịch với người thứ ba sẽ làm phát sinh trách nhiệm của doanh nghiệp khi nhân danh doanh nghiệp. Tiêu chí để xác định đó là nhân viên có thẩm quyền đại diện rò ràng. Cụ thể là: nhân viên phải thực hiện nhiệm vụ trong phạm vi công việc phù hợp với năng lực, thẩm quyền được giao và thực hiện giao dịch vì lợi ích của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, người đại diện doanh nghiệp thể hiện sự đồng ý rò ràng bằng văn bản hoặc đồng ý ngầm định qua hành động, lời nói. Hoàn toàn, việc đại diện này chỉ trong phạm vi công việc nhỏ được giao cho nhân viên. Ví dụ khi nhân viên thực hiện một giao dịch liên quan đến sáp nhập, mua bán doanh nghiệp thì đây là một công việc ngoài phạm vi công việc bình thường mà doanh nghiệp giao. Trong khi đó, người ĐDTPL có quyền đại diện đầy đủ với phạm vi rộng trước Nhà nước, bên thứ ba. Nguồn gốc phát sinh quyền đại diện đó được hình thành từ quy định của pháp luật và Điều lệ trong khi nguồn gốc hình thành quyền đại diện của nhân viên chủ yếu xuất phát từ hợp đồng.

Qua sự phân biệt người ĐDTPL với các chủ thể khác, có thể khẳng định người ĐDTPL là đại diện bắt buộc, như là một cơ chế nội tại của chính bản thân doanh nghiệp, cùng tồn tại với doanh nghiệp. Việc xác định chủ thể là người ĐDTPL của doanh nghiệp cực kỳ quan trọng về mặt pháp lý cũng như thực tiễn hoạt động kinh doanh. Có thể khẳng định: một tổ chức có khả năng thể hiện và bảo vệ lợi ích của nhóm, thông qua vai trò của người đại diện là một yếu tố để công nhận sự tồn tại của nó và đại diện là một yếu tố thiết yếu của doanh nghiệp.

2.2.2. Đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp có tính hợp pháp

Dù tiếp cận ở góc độ lý luận nào về bản chất của công ty, lý thuyết giả tưởng hay lý thuyết hiện thực, đều có thể khẳng định: Nhà nước luôn ghi nhận danh tính người đại diện cho doanh nghiệp thông qua cơ chế đăng ký và quy định yêu cầu công ty phải công khai hóa. Người ĐDTPL hợp pháp sẽ tự động có quyền đại diện cho doanh nghiệp. Do đó, đại diện này là phương thức duy nhất biểu hiện cho các hành động với bên ngoài của doanh nghiệp.

Tính hợp pháp còn thể hiện ở điểm pháp luật quy định về các điều kiện để có thể trở thành người ĐDTPL của doanh nghiệp. Điều kiện này không phụ thuộc vào sự lựa chọn của những người sáng lập doanh nghiệp mà hoàn toàn dựa trên quy định của pháp luật các quốc gia. Đối với cá nhân, ngoài các điều

Xem tất cả 207 trang.

Ngày đăng: 13/07/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí