Những Vấn Đề Luận Án Tiếp Thu Và Tiếp Tục Phát Triển

pháp luật Việt Nam – nhìn từ góc độ so sánh” của nhà nghiên cứu Ngô Huy Cương đăng trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 4/2009; bài viết “Lý thuyết về đại diện và mấy vấn đề của pháp luật công ty Việt Nam” của học giả Bùi Xuân Hải đăng trên Tạp chí khoa học pháp lý số 4/2007; bài viết “Chế định đại diện trong pháp luật Việt Nam và vấn đề đặt ra trong thực tiễn áp dụng” của tác giả Nguyễn Vũ Hoàng trên tạp chí Luật học số 2/2013. Tất cả các bài viết phân tích các vấn đề liên quan đến đại diện dựa trên quy định LDN năm 2005. Nhìn chung các công trình đã chỉ ra những điểm bất cập trong quá trình áp dụng pháp luật nhưng cơ bản là đánh giá quy định trong LDN 2005 và BLDS năm 2005. Do đó, có những điểm trong các kiến nghị đã được sửa đổi, bổ sung trong LDN năm 2014.

Luật doanh nghiệp năm 2014 ra đời với nhiều quy định được sửa đổi, bổ sung. Trên cơ sở đó, các bài viết, sách chuyên khảo của các nhà nghiên cứu như: cuốn sách “Luận giải về Luật doanh nghiệp” của Luật sư Trương Thanh Đức [19], “Pháp luật về doanh nghiệp – các vấn đề pháp lý cơ bản” của Luật sư Trương Nhật Quang[40]; Một số vấn đề pháp lý về nghĩa vụ của người quản lý công ty cổ phần của Tiến sĩ Nguyễn Minh Tuấn [52],“Giải quyết tranh chấp hợp đồng, những điều doanh nhân cần biết” của Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam [53]. Tuy nhiên, đối với các nghiên cứu của các học giả trong nước, nhìn chung, có nhiều vấn đề được phân tích dựa trên quy định LDN năm 2005, LDN năm 2014 nên tính thời sự, cập nhật đến nay phần nào bị hạn chế. Mặt khác, các công trình này nghiên cứu chưa sâu về một số vấn đề như: lựa chọn mô hình ĐDTPL phù hợp với lý thuyết pháp lý trong quản trị doanh nghiệp và tương thích với chế định đại diện được quy định trong BLDS; trách nhiệm pháp lý của người ĐDTPL cũng như doanh nghiệp quan hệ đại diện và đối với người thứ ba.

Thứ tư, các công trình nghiên cứu về đại diện ở một số quốc gia như Anh, Hòa Kỳ, Pháp, Đức, Trung Quốc... đã hình thành nên bức tranh tổng thể về mô hình đại diện của doanh nghiệp, quyền và nghĩa vụ cũng như trách nhiệm pháp lý của người ĐDTPL ở các nước. Trong đó, có làm rò được sự tương đồng và khác biệt trong quy định của pháp luật các nước về người có quyền đại diện cho doanh nghiệp trong mối quan hệ với chính doanh nghiệp và với bên thứ ba. Tuy nhiên, khi tham khảo các bài viết, sách chuyên khảo cho thấy cơ sở trong việc lựa chọn mô hình ĐDTPL của doanh nghiệp, việc xác định quyền, nghĩa vụ của

người đại diện hay trách nhiệm với bên thứ ba có sự khác nhau. Mặc dù vậy, các nghiên cứu của các học giả này có giá trị tham khảo cho việc nghiên cứu so sánh mô hình đại diện của doanh nghiệp ở Việt Nam với các nước. Điều này thể hiện trong các công trình nghiên cứu như: Comprative Company Law của Andreas Cahn và David C.Donald (2010), Agency Law and Principles của Rodedick Munday (2010), Corporate Governance in China của Giovanni Pisacane (2017),... Các công trình này góp phần đưa ra những gợi mở cho việc xác định những giải pháp phù hợp nhất trong thực tiễn xây dựng và áp dụng pháp luật ở Việt Nam.

1.2.2. Những vấn đề luận án tiếp thu và tiếp tục phát triển

Thứ nhất, tác giả tiếp tục nghiên cứu về mô hình ĐDTPL của doanh nghiệp trên cơ sở những lý thuyết đã được các nhà khoa học pháp lý xây dựng và nghiên cứu rất công phu. Đó là cách tiếp cận vấn đề từ các lý thuyết về bản chất pháp lý của công ty, lý thuyết về đại diện đã được tìm hiểu và phân tích tại mục

1.1.1 chương 1 của luận án. Những lý thuyết này được phân tích trong bối cảnh hệ thống pháp luật Việt Nam về quan hệ đại diện, điều kiện kinh tế và xã hội để làm rò thêm những ưu, nhược điểm của mô hình ĐDTPL của doanh nghiệp hiện nay. Khi nghiên cứu mô hình ĐDTPL của doanh nghiệp trong và ngoài nước, cần cân nhắc điều kiện thực tiễn ở Việt Nam hiện nay với đặc trưng riêng trong sự phát triển kinh tế, để xác định xem việc lựa chọn áp dụng biện pháp, nguyên tắc nào thực sự hữu ích và phù hợp với đời sống kinh tế và hệ thống văn bản pháp luật có liên quan.

Thứ hai, trên cơ sở kết quả nghiên cứu của những công trình nghiên cứu khoa học đi trước về lý luận như đặc trưng, thẩm quyền đại diện, phân loại đại diện, quyền và nghĩa vụ của các bên bên trong quan hệ đại diện và với bên thứ ba, nghiên cứu sinh sẽ hệ thống hóa, phân tích các quy định của pháp luật hiện nay nhằm làm rò sự kế thừa, phát triển và những điểm tồn tại cần khắc phục trong pháp luật doanh nghiệp liên quan đến ĐDTPL. Mặt khác, các nghiên cứu về mô hình ĐDTPL của doanh nghiệp từ các khía cạnh như thẩm quyền, căn cứ xác lập và thay đổi quan hệ đại diện, tiêu chuẩn và điều kiện, quyền và nghĩa vụ của người đại diện trong BLDS năm 2015, LDN năm 2005, LDN năm 2014 đã được nhắc đến không ít. Ít nhiều, các vấn đề lý luận đó vẫn còn giá trị nhất định.

Các kết quả nghiên cứu các quy định về người ĐDTPL của pháp nhân trong BLDS năm 2015 và của doanh nghiệp trong LDN năm 2020 đã được công bố dù chưa nhiều nhưng cũng là nguồn tư liệu tham khảo rất có giá trị khi viết luận án này.

Thứ ba, việc nghiên cứu hoàn thiện pháp luật về ĐDTPL của doanh nghiệp cũng như tìm ra các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật cần tham khảo kinh nghiệm quy định và quá trình thực thi pháp luật của các nước trên thế giới, trong đó có thể kể đến Pháp, Đức, Anh, Mỹ là các nước có nền kinh tế thị trường phát triển. tác giả tập trung nghiên cứu pháp luật các nước theo truyền thống pháp luật Châu Âu lục địa (Civil Law) với đại diện tiêu biểu là Pháp, Đức và các nước theo hệ thống thông luật (Common Law) với đại diện là Anh, Mỹ. Nguyên nhân bởi sự khác nhau cơ bản giữa hai hệ thống này về việc sử dụng những khái niệm pháp lý cơ bản (ví dụ: các nước Châu Âu lục địa không có khải niệm tương đương với khái niệm “Trust” - ủy thác như pháp luật Anh) và phương thức lâp luận pháp lý cũng được sử dụng với mức độ ưu tiên khác nhau. Hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa thường sử dụng phương thức suy diễn (căn cứ quy tắc chung để suy ra các quy định cụ thể cần áp dụng) và các nước Anh, Mỹ sử dụng phương thức áp dụng áp luật tương tự (áp dụng quy định của pháp luật hiện có cho những trường hợp giống như các trường hợp đã áp dụng trước đó). Đây được xem là hai hệ thống pháp luật lớn được phân loại dựa trên tiêu chí cơ cấu của các quy định của pháp luật. Mặt khác, tác giả cũng giới thiệu các quy định của pháp luật của Trung Quốc, bởi có những sự liên hệ về ảnh hưởng lịch sử của pháp luật Xô – Viết. Chính vì vậy, các kết quả nghiên cứu về người đại diện của doanh nghiệp, các quy định của pháp luật và các án lệ có liên quan ở các quốc gia này sẽ được luận án tham khảo trong việc đề xuất các giải pháp, vận dụng vào bối cảnh thực tế của Việt Nam.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 207 trang tài liệu này.

Trên cơ sở kế thừa kết quả đã đạt được từ các công trình đi trước, tác giả tiếp tục nghiên cứu và giải quyết một số vấn đề, cụ thể là:

- Nghiên cứu nhằm xác định rò mô hình ĐDTPL của doanh nghiệp trong pháp luật Việt Nam. Cụ thể là: xác định mô hình đại diện của doanh nghiệp hiện này với những ưu điểm và nhược điểm cần khắc phục; xác định chỉ dẫn rò ràng cho doanh nghiệp trong việc thực hiện pháp luật về vấn đề này. Điều này được đặt trong bối cảnh các văn bản pháp luật như BLDS năm 2015, LDN năm 2014

Đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp theo pháp luật doanh nghiệp Việt Nam hiện nay - 5

và LDN năm 2020 được ban hành chưa lâu, chưa bao quát hết các trường hợp tranh chấp trong thực tiễn, gây khó khăn cho doanh nghiệp trong giao dịch. Đối với trường hợp doanh nghiệp có nhiều người ĐDTPL, để đảm bảo an toàn, bên thứ ba luôn phải xác minh phạm vi thẩm quyền hoặc yêu cầu tất cả những người đại diện đều xác nhận giao dịch ảnh hưởng tới thời gian giao dịch, làm thời gian giao dịch tăng lên và chưa đáp ứng được nhu cầu của các bên.

- Nghiên cứu nhằm làm rò quyền và nghĩa vụ các bên trong quan hệ đại diện này: người đại diện và doanh nghiệp hoặc người đại diện với các cổ đông (người sở hữu).

- Nghiên cứu nhằm đề xuất cơ chế giám sát hữu hiệu từ nội bộ doanh nghiệp đối với người đại diện và việc truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với người ĐDTPL khi có hành vi vi phạm pháp luật. Trách nhiệm này phải được xem xét ở ba góc độ: trách nhiệm hành chính, trách nhiệm dân sự và trách nhiệm hình sự.

- Phân tích thực tiễn áp dụng pháp luật về ĐDTPL của doanh nghiệp Việt Nam hiện hành: BLDS, LDN, LPS. Trong thực tế, việc áp dụng các đạo luật này vẫn còn vướng mắc do các quy định BLDS về đại diện nói chung và các luật chuyên ngành như LDN, LPS chưa thống nhất trong cách tiếp cận.

- Đề xuất các giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật trong thực tiễn.

1.3. Câu hỏi nghiên cứu, giả thuyết nghiên cứu và cơ sở lý thuyết nghiên cứu.

Luận án tập trung trả lời câu hỏi nghiên cứu sau đây:

- Cơ sở lý thuyết pháp lý có liên quan đến mô hình ĐDTPL của doanh nghiệp có nội dung như thế nào?

- Mô hình ĐDTPL của một số quốc gia trên thế giới theo hai hệ thống pháp luật cơ bản là pháp luật Châu Âu lục địa (Civil Law) với đại diện là Pháp, Đức và hệ thống thông luật (Common Law) với đại diện là Anh, Mỹ như thế nào? Có điểm gì giống và khác nhau? Tại sao có sự khác nhau đó?

- Mô hình ĐDTPL của doanh nghiệp được quy định trong pháp luật doanh nghiệp tại Việt Nam hiện nay như thế nào? Mô hình đó tương đồng hay khác biệt gì trong so sánh mô hình tương ứng ở một số quốc gia như Pháp, Đức, Anh, Mỹ, Trung Quốc? Tại sao có sự khác nhau đó?

- Quy định của pháp luật doanh nghiệp hiện nay ở Việt Nam về mô hình ĐDTPL của doanh nghiệp có những ưu và nhược điểm gì?

- Vấn đề pháp lý nền tảng là cơ sở cho hoạt động của ĐDTPL của doanh nghiệp trong pháp luật dân sự: trách nhiệm pháp lý của doanh nghiệp và người ĐDTPL đối với bên thứ ba và xử lý hậu quả pháp lý trong các giao dịch không có thẩm quyền đại diện, vượt quá thẩm quyền đại có ưu, nhược điểm gì? Tại sao?

- Thực tiễn thực hiện pháp luật về ĐDTPL tại Việt Nam hiện nay diễn ra như thế nào? Những vướng mắc có thể nhận thấy qua thực tiễn áp dụng pháp luật tại Tòa án nhân dân các cấp? Nguyên nhân những hạn chế đó?

- Giải pháp nào cần thực hiện để hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về ĐDTPL của doanh nghiệp ở Việt Nam?

Giả thuyết nghiên cứu được đặt ra nhằm làm sáng tỏ mục đích nghiên cứu:

- Sự đa dạng của các lý thuyết pháp lý liên quan đến ĐDTPL của doanh nghiệp là sự thuận lợi để lựa chọn lý thuyết pháp lý phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, hệ thống pháp luật của Việt Nam và xây dựng mô hình ĐDTPL hợp lý.

- Quy định của pháp luật doanh nghiệp hiện nay về ĐDTPL của doanh nghiệp như: phạm vi thẩm quyền, quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm đối với bên thứ ba cũng như trách nhiệm pháp lý của người đại diện chưa bảo vệ tốt quyền và lợi ích hợp pháp của các bên.

- Thực tiễn thực hiện pháp luật về ĐDTPL của doanh nghiệp còn nhiều bất cập: hoạt động áp dụng pháp luật giải quyết tranh chấp về ĐDTPL của doanh nghiệp tại Tòa án nhân dân các cấp còn nhiều vướng mắc; phần lớn các doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa hoàn thiện mô hình quản trị doanh nghiệp hiệu quả trong đó thiếu cơ chế kiểm soát quyền lực của người đại diện, chưa khắc phục được tình trạng lạm quyền trong điều hành, tình trạng thông tin bất cân xứng và ảnh hưởng đến quyền lợi của cổ đông.

- Những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật liên quan đến người ĐDTPL của doanh nghiêp cần hướng vào tiêu chuẩn: hiệu quả thực hiện pháp luật trong xã hội.

Lý thuyết nghiên cứu mà tác giả vận dụng là:

Thứ nhất, lý thuyết pháp lý liên quan đến bản chất pháp lý của công ty. Có khá nhiều lý thuyết pháp lý có liên quan, song nghiên cứu sinh tập trung nghiên cứu vào các lý thuyết cơ bản bao gồm: lý thuyết giả tưởng (Fiction Theory), lý thuyết hiện thực (Realistic Theory), lý thuyết mối liên hệ hợp đồng (Nexus of contracts) và lý thuyết tổ chức (Organnic Theory). Đây là các lý thuyết pháp lý cơ bản liên quan đến lý giải bản chất của công ty có tư cách pháp

nhân. Dựa trên các lý thuyết này, vấn đề lí luận được làm rò hơn bao gồm: người đại diện và người được đại diện trong doanh nghiệp là ai? vấn đề về cơ cấu phân bố quyền lực trong quản trị doanh nghiệp, mô hình của của doanh nghiệp và cơ chế chịu trách nhiệm bồi thường của pháp nhân thay cho người đại diện đối với bên thứ ba. Các lý thuyết này cũng là cơ sở nghiên cứu về quyền, nghĩa vụ của người ĐDTPL của doanh nghiệp.

Thứ hai, lý thuyết về đại diện (Agency Theory) với các vấn đề xung đột lợi ích và thông tin bất cân xứng trong quản trị doanh nghiệp được vận dụng để xem xét cơ chế giám sát người ĐDTPL. Từ góc độ kinh tế học pháp luật, vấn đề phòng tránh mâu thuẫn lợi ích giữa chủ sở hữu doanh nghiệp với người đại diện được đặt ra nhằm điều hòa, đảm bảo lợi ích chung của doanh nghiệp, các bên thứ ba có liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp trong các quyết định của người ĐDTPL. Xung đột lợi ích tồn tại trong các bộ phận nội bộ của doanh nghiệp, giữa cổ đông thiểu số và cổ đông đa số, giữa các thành viên trong Hội đồng nắm giữ quyền điều hành với các thành viên không có quyền điều hành. Bên cạnh đó, sự tồn tại vấn đề tiếp cận thông tin bất không công bằng giữa người đại diện với các cổ đông cũng là nguyên nhân dẫn tới sự bất bình đẳng, kẽ hở để thực hiện các giao dịch tư lợi. Do đó, thiết lập phương thức kiểm soát quyền lực hiệu quả cũng như phân định trách nhiệm pháp lý rò ràng khi có hành vi vi phạm pháp luật trở nên cực kỳ quan trọng.


TIỂU KẾT CHƯƠNG 1

Qua phân tích các nội dung tại chương 1, các nội dung tập trung làm rò bao gồm:

1. Có nhiều lý thuyết pháp lý liên quan đến vấn đề đại diện của doanh nghiệp bao gồm các lý thuyết về bản chất pháp lý của các công ty (lý thuyết giả tưởng, lý thuyết hiện thực, lý thuyết hợp đồng, lý thuyết tổ chức). Lý thuyết về đại diện và các lý thuyết trong quản trị doanh nghiệp (lý thuyết quản lý, lý thuyết các bên liên quan, lý thuyết hợp đồng xã hội). Mỗi lý thuyết có mỗi quan điểm riêng ảnh hưởng tới cách phân bổ quyền lực trong quản trị doanh nghiệp. Mỗi lý thuyết này được vận dụng khác nhau trong pháp luật các nước tạo nên sự đa dạng trong pháp luật các quốc gia về đại diện của doanh nghiệp.

2. Các công trình trong nước và ngoài nước được công bố đã làm sáng tỏ phần nào vị trí, vai trò, đặc trưng của ĐDTPL của doanh nghiệp. Đại diện theo

pháp luật của doanh nghiệp là vấn đề có vị trí quan trọng trong quy định của pháp luật doanh nghiệp vì liên quan trực tiếp tới hoạt động và sự tồn tại của doanh nghiệp.

Bên cạnh đó, các yếu tố chung như: thẩm quyền đại diện, bảo vệ người thứ ba trong quan hệ đại diện của doanh nghiệp, quyền và nghĩa vụ của người đại diện, cơ chế giám sát cũng đã được phân tích khá chi tiết và cho thấy nhiều điểm tương đồng. Bên cạnh đó, có thể thấy các công trình nghiên cứu nước ngoài chỉ rò mô hình đại diện của doanh nghiệp đa dạng, do sự khác biệt giữa các hệ thống pháp luật đó về nguồn pháp luật, áp dụng án lệ trong quan điểm về pháp nhân và vấn đề đại diện.

3. Trên cơ sở lý thuyết về bản chất pháp lý của công ty, lý thuyết quản lý, lý thuyết các bên liên quan, lý thuyết về xung đột lợi ích và thông tin bất cân xứng trong quản trị doanh nghiệp, luận án đề ra nhiệm vụ nghiên cứu và đánh giá ĐDTPL của doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay từ nhiều góc độ. Mục đích hướng tới của luận án là tìm ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về ĐDTPL của doanh nghiệp ở Việt Nam trong giai đoạn tới.

Chương 2

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT CỦA DOANH NGHIỆP


2.1. Khái niệm đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp

2.1.1. Khái niệm đại diện theo pháp luật

Đại diện là một quan hệ giữa các chủ thể mà theo đó, một cá nhân hay pháp nhân nhân danh và vì lợi ích của một chủ thể khác để xác lập và thực hiện một giao dịch. Xã hội càng phát triển, sự phân công lao động càng chuyên nghiệp và phân phối hàng hóa dịch vụ càng phát triển thì đại diện càng trở nên quan trọng. Hay nói cách khác “ở phương diện vĩ mô, nó thúc đẩy phân công lao động xã hội và tăng cường giao lưu dân sự, ở phương diện vi mô, nó giúp các chỉ thể thuận tiện hơn trong việc giao kết các hợp đồng” [9; tr 282].

Đây là chế định pháp luật được ghi nhận trong các hệ thống pháp luật các nước trên thế giới do tầm quan trọng của chế định này. Viện Luật Mỹ đã định nghĩa về đại diện tại Điều 1.01 Phần sửa đổi Luật Đại diện lần 3 (2006): “Đại diện là mối quan hệ ủy thác được phát sinh khi một người (người được đại diện) thỏa thuận với một người khác (người đại diện) rằng người đại diện sẽ hành động nhân danh người được đại diện dựa trên phạm vi được đại diện, và người đại diện thể hiện sự đồng thuận hoặc đồng ý khác để hành động”[86, tr 1]. Khái niệm này được BLDS Pháp năm 1803, sửa đổi, bổ sung vào năm 2016 ghi nhận: “Đại diện được xác lập thẩm quyền từ quy định của pháp luật, từ quyết định của tòa án hoặc từ hợp đồng chỉ được hành động trong giới hạn thẩm quyền được trao cho người đó” [114, Điều 1153]. Pháp luật Việt Nam ghi nhận khái niệm đại diện trong BLDS năm 2015: “Đại diện là việc cá nhân, pháp nhân (người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của cá nhân hoặc pháp nhân khác (người được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự” [108, Khoản 1 Điều 134].

Nhìn chung, pháp luật các nước đều ghi nhận khái niệm đại diện tương tự nhau, trong đó nhấn mạnh đến mối quan hệ xuất hiện bên trong giữa người đại diện với người được đại diện; mối quan hệ bên ngoài giữa người đại diện với người thứ ba. Trong đó, không thể không lưu ý, chỉ khi người đại diện nhân danh

Xem tất cả 207 trang.

Ngày đăng: 13/07/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí