Khái Niệm Đại Diện Theo Pháp Luật Của Doanh Nghiệp

người khác thực hiện hành động trong phạm vi thẩm quyền được mới ràng buộc trách nhiệm của người được nhân danh đó.

Nhằm mục đích xác định các quy tắc pháp lý điều chỉnh phù hợp tính chất của từng quan hệ đại diện (đại diện bắt buộc cho cá nhân, tổ chức hoặc đại diện theo sự ủy quyền của các chủ thể), việc phân loại đại diện được các nhà lập pháp gọi tên. Một trong số các hình thức đại diện đó, có ĐDTPL. Hình thức ĐDTPL là hình thức không thể thiếu trong quy định về đại diện của tất cả các BLDS ở các quốc gia trên thế giới. Bởi trong xã hội, pháp luật cần quy định hình thức ĐDTPL để bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của các chủ thể khi họ không có khả năng hoặc không thể tự mình thực hiện giao dịch.

Trong quy định của pháp luật dân sự của Pháp, có thể tìm thấy thuật ngữ:

:đại diện theo pháp luật” (legal représentation) tại Điều 1153. Đây là trường hợp một cá nhân được pháp luật chỉ định là người đại diện cho cá nhân ví dụ như trường hợp trẻ chưa thành niên do cha mẹ là người ĐDTPL ) hoặc pháp nhân (ví dụ như người lãnh đạo công ty đại diện cho công ty) thực hiện hoạt động nhân danh người được đại diện [107]. Có thể thấy rò trong pháp luật Pháp, thẩm quyền đại diện được hình thành từ ba nguồn: (i) Người đại diện có thẩm quyền được hình thành từ quy định của pháp luật. Ví dụ như cha mẹ là đại diện của trẻ chưa thành niên, thành viên HĐQT công ty có quyền đại diện cho công ty theo quy định của pháp luật. (ii) Người đại diện có thẩm quyền được hình thành từ quyết định của tòa án: Người đại diện này thường được chỉ định theo quyết định tư pháp như quyết định của thẩm phán trong các vụ việc phá sản. (iii) Đại diện theo ủy quyền: là kết quả của một hợp đồng ủy nhiệm theo đó người được đại diện trao quyền cho người đại diện để thực hiện một hành động pháp lý nhân danh họ trong phạm vi giới hạn thỏa thuận [101].

Bộ Luật dân sự của Đức năm 1896, được sửa đổi, bổ sung lần gần nhất năm 2013 không chỉ rò khái niệm đại diện theo pháp luật (Gesetzlicher vertreter), song quy định về ĐDTPL của pháp nhân tại Điều 26, ĐDTPL cho cá nhân tại Điều 127, 1626, 1629, 1809 tương tự như pháp luật của Pháp [113]. Đối với cá nhân, quan hệ đại diện áp dụng trong trường hợp cha, mẹ, người giám hộ là đại diện hợp pháp cho trẻ vị thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người hạn chế năng lực hành vi dân sự.

Tra cứu các văn bản pháp luật doanh nghiệp không thể tìm thấy cụm từ diễn đạt chính xác “đại diện theo pháp luật” trong hệ thống pháp luật của nước Anh mặc dù có tồn tại hình thức đại diện tương tự như thế nhưng dưới tên gọi khác nhau. Trong pháp luật về đại diện không có khái niệm “đại diện theo pháp luật”. Pháp luật của Anh cho rằng đại diện là mối quan hệ tồn tại giữa người được đại diện và người đại diện, theo đó, chức năng của người đại diện là tạo hợp đồng giữa người được đại diện và bên thứ ba hoặc thiết lập đại diện của người được đại diện theo những cách khác nhau. Người đại diện thay mặt cho người được đại diện thực hiện các hoạt động và người được đại diện phải chịu trách nhiệm về hành động của người đại diện trong phạm vi mà người đại diện đã thể hiện ý chí đồng ý một cách rò ràng (Express agency) hoặc ngầm định (Implied agency) [62; tr28]. Đại diện được phân chia thành các hình thức dựa trên sự thể hiện ý chí của các bên chủ thể ra bên ngoài và sự ràng buộc trách nhiệm của bên được đại diện. Về cơ bản có ba loại đại diện: Đại diện thực tế (Actual agency), đại diện rò ràng (Apparent agency) và đại diện do phê chuẩn (Ratified agency).

Đại diện thực tế (Actual agency): Hình thức đại diện này chia thành hai trường hợp: đại diện rò ràng (Express actual agency) và đại diện ngầm định (Implied agency).

Đại diện rò ràng (Express actual agency) là hình thức đại diện theo sự chỉ định rò ràng của người được đại diện. Hình thức thể hiện thẩm quyền rò ràng nhất là dưới dạng văn bản [86,tr42]. Ví dụ như: Công ty đăng ký chữ ký chuẩn trên hồ sơ với ngân hàng cho phép các đại diện của công ty viết séc tín dụng của công ty.

Đại diện thực tế ngầm định (Implied actual agency) là mối quan hệ đại diện có thể được suy ra từ bản chất mối quan hệ của các bên như vị trí người đại diện đang nắm giữ, qua sự thể hiện bằng lời nói hoặc hành vi của của người đại diện như thể người đó có thẩm quyền và người được đại diện thừa nhận điều đó. Quyền hạn ngầm định này không được đề cập cụ thể bởi hợp đồng nhưng được giả định bởi pháp luật hoặc ngầm định bởi bản chất của mối quan hệ [86,tr48]. Ví dụ, trong một doanh nghiệp, tất cả các giám đốc điều hành và nhân viên cấp cao có quyền ra quyết định theo chức vụ của họ và làm phát sinh trách nhiệm của công ty.

(i) Đại diện bề ngoài (Apparent agent)

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 207 trang tài liệu này.

Đại diện bề ngoài là trường hợp người đại diện có hành động là cơ sở để bên thứ ba ngay tình tin tưởng người đại diện có quyền xác lập, thực hiện giao dịch. Đó có thể là lời nói hoặc hành vi của người được đại diện chấp nhận cho một người hành xử như người đại diện của mình dù trong thực tế không có thẩm quyền hoặc chấp thuận cho người đại diện tiếp tục xuất hiện với vị trí là người đại diện dù chấm dứt thẩm quyền hoặc có hành động gây hiểu nhầm rằng người đại diện có thẩm quyền lớn hơn thẩm quyền đại diện mà trong thực tế người đó nắm giữ. Do đó, liên quan đến doanh nghiệp, chủ sở hữu doanh nghiệp có thể tránh phải chịu trách nhiệm bằng cách thông báo công khai về việc chấm dứt thẩm quyền cho người thứ ba. Hoặc trường hợp người đại diện bị chấm dứt quyền đại diện nhưng người được đại diện đã không thông báo cho người thứ ba biết về việc chấm dứt thẩm quyền của người đại diện [86,tr 63,64]. Có sự tương đồng giữa đại diện bề ngoài (Apparent Agency) với đại diện (Estoppel Agency) song chỉ có một sự khác biệt giữa hai trường hợp này, đó là: đại diện bề ngoài yêu cầu người đại diện thể hiện hành động sai sót trong khi đại diện bề ngoài (Estoppel agency) thì không. Ví dụ như: người đại diện thực hiện hành vi trước sự chứng kiến của người được đại diện, người được đại diện im lặng, không ngăn cản người thứ ba ngay tình thực hiện giao dịch, không nói với bên thứ ba rằng người khác là người đại diện của họ.

(iii) Đại diện cần thiết (Neccessary agency) là trường hợp khi một bên (người được đại diện) gặp trường hợp khẩn cấp có thể đe dọa đến tài sản hoặc lợi ích của người được đại diện, đến mức không có đủ thời gian cho việc tìm kiếm sự đồng ý của người được đại diện hoặc sự hướng dẫn trước khi thực hiện hành đồng. Khi không thể liên lạc với người được đại diện, pháp luật đã chấp nhận cho người đại diện được có quyền làm những gì cần thiết để bảo trì tài sản của người được đại diện, vì lợi ích của người được đại diện [86,tr 91]. Ví dụ trong tình huống khẩn cấp, một người đại diện có quyền hành động vì lợi ích tốt nhất bảo vệ người được đại diện không bị thua lỗ. Sau khi đã thực hiện công việc, người được đại diện sẽ hoàn trả các chi phí phát sinh trong việc bảo vệ tài sản cho người đại diện. Hình thức này tương tự như thực hiện công việc không có ủy quyền trong pháp luật dân sự của Việt Nam.

Đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp theo pháp luật doanh nghiệp Việt Nam hiện nay - 6

(iv) Đại diện do phê chuẩn (Agency by ratification)

Đây là trường hợp người được đại diện phê chuẩn một thỏa thuận do người đại diện đã ký kết không thuộc thẩm quyền đại diện. Sự phê duyệt này có thể là một hành động thể hiện rò ràng hoặc ngầm hiểu của người được đại diện đối với hành vi của người đại diện và việc này sẽ ràng buộc bên thứ ba đối với giao dịch đã xác lập. Nếu không có sự phê chuẩn của người được đại diện thì bên thứ ba không bị ràng buộc vào thỏa thuận trái phép đã xác lập với người đại diện không có thẩm quyền rò ràng. Điều này khác với đại diện rò ràng (Apparent agency), người được đại diện và bên thứ ba bị ràng buộc kể từ thời điể người đại diện và bên thứ ba hoàn thành thỏa thuận [86,tr105,106].

Có thể thấy, pháp luật Anh không trực tiếp đưa ra khái niệm “đại diện theo pháp luật” mà được xen lẫn trong các hình thức đại diện bởi quốc gia này phân loại quan hệ đại diện không dựa trên nguồn gốc phát sinh quan hệ mà dựa trên các yếu tố thể hiện bên ngoài quan hệ đại diện. Đó có thể là hình thức hợp đồng (đại diện thực tế) hoặc tương tự như hành vi pháp lý đơn phương (đại diện cần thiết). Tuy nhiên, ở bất kỳ loại hình đại diện nào, có thể thấy đặc trưng chung của quan hệ đại diện là dựa trên sự thể hiện ý chí rò ràng hoặc ngầm định, dựa trên yếu tố lỗi của người được đại diện và người đại diện khi thể hiện thẩm quyền trước người thứ ba để từ đó, ràng buộc trách nhiệm của các bên liên quan, bảo vệ lợi ích hợp pháp của bên thứ ba.

Ở Việt Nam, ĐDTPL được nhắc đến rất nhiều trong các văn bản pháp luật. Sự tương đồng về khái niệm với quy định của pháp luật của Pháp được tìm thấy trong Điều 135 BLDS VIệt Nam năm 2015: “là đại diện được xác lập theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, theo điều lệ của pháp nhân hoặc theo quy định của pháp luật”. Thuật ngữ “đại diện theo pháp luật” từ đó được sử dụng để chỉ các trường hợp người đại diện được chỉ định theo quy định của pháp luật, bao gồm cả người ĐDTPL của cá nhân và pháp nhân. Rò ràng, từ khái niệm này có thể thấy các nhà lập pháp ở Việt Nam nhìn nhận khái niệm ở góc độ nguồn gốc hình thành quan hệ đại diện chứ không dựa trên tính chất hay mức độ của quyền đại diện. Từ đó, phạm vi thẩm quyền đại diện trong ĐDTPL cũng rộng mở hơn bởi đây là hình thức đại diện luật định.

Qua sự phân tích trên, có thể khẳng định ĐDTPL là trường hợp đại diện do pháp luật quy định hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định.

Lý giải sự khác nhau trong pháp luật các quốc gia Pháp, Đức và Anh, Mỹ. cần xem xét lịch sử phát triển của chế định này. Theo yêu cầu cấp thiết của xã hội với nền kinh tế thị trường, luật pháp thời kỳ trung cổ các nước Châu Âu lục địa đã hình thành lý thuyết về vai trò của chủ nhân và đầy tớ theo đó, những người đầy tớ được thay mặt chủ nhân thực hiện quyền giao dịch thương mại. Các BLDS tại các nước Châu Âu như BLDS Phổ năm 1794, BLDS Napoleon năm 1804 của Pháp đều ghi nhận đại diện như là một chế định pháp luật. Tuy nhiên, song song với sự phát triển quy định này, trong pháp luật Anh, việc tiếp nhận lý thuyết về đại diện có xu hướng kiểm soát ít nghiêm ngặt hơn và sửa đổi nhiều khái niệm luật thông thường. Pháp luật Anh quy định về đại diện khá linh hoạt do dựa trên ba nguồn gốc luật độc lập: một là các quy định của luật, hai là các quy định trong hợp đồng và ba là các án lệ hình thành từ thực tiễn xét xử, từ đó xác lập các quy tắc điều chỉnh thích ứng với các vấn đề và yêu cầu riêng biệt của từng trường hợp [93].

Bên cạnh đó, ở những quốc gia có nền kinh tế phát triển và chịu ảnh hưởng của pháp luật La Mã như Pháp, Đức, đại diện được đánh giá là vấn đề cơ bản, tập trung vào dấu hiệu và phân tích pháp lý để xác định các hình thức đại diện và hệ quả pháp lý tương ứng. Điều này khác với hệ thống pháp luật các nước Anh, Mỹ: dựa trên nhiều án lệ về tranh chấp kinh tế, dân sự trong quan hệ đại diện đã bổ sung rất nhiều yếu tố chứng minh tính chất của các hình thức đại diện bên cạnh dấu hiệu pháp lý đã được pháp luật thành văn quy định. Từ đó cho thấy pháp luật các nước Pháp, Đức quy định về đại diện theo hướng xử lý khái niệm có hệ thống với phạm vi có phần hẹp hơn so với xu thế gắn kết các quy tắc về đại diện với thực tiễn quan hệ kinh doanh, thương mại ở Anh, Mỹ [62; tr20]. Xét về tổng thể, từ khái niệm và các quy định của pháp luật, có thể khẳng định pháp luật Việt Nam có nhiều nét biểu hiện bên ngoài tương đồng với pháp luật các nước Pháp, Đức.

Như vậy, đại diện theo pháp luật là một quan hệ giữa các chủ thể mà theo đó, một người (gọi là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của một người khác (người được đại diện) để xác lập và thực hiện các giao dịch mà trong đó

người đại diện được chỉ định cụ thể với thẩm quyền xác định rò ràng trong văn bản luật. Do đó, hình thức đại diện theo pháp luật có quy tắc pháp lý riêng biệt với đại diện theo ủy quyền. Đối với đại diện theo ủy quyền, căn cứ hình thành phát sinh từ hợp đồng nên quy tắc điều chỉnh mang tính linh hoạt, phạm vi ủy quyền được xác định dựa trên ý chí của các chủ thể. Ngược lại, trường hợp ĐDTPL, quy tắc điều chỉnh phải đảm bảo lợi ích chính đáng của các chủ thể. Bên cạnh đó, “phạm vi ủy quyền được xác định khá mềm mỏng trên căn bản lợi ích của người được đại diện, trừ khi pháp luật có quy định khác (chẳng hạn trong điều lệ công ty)” [10; tr 285].

1.1.2. Khái niệm đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp

Doanh nghiệp là từ chung để chỉ các loại hình doanh nghiệp, trong đó công ty là một loại hình doanh nghiệp. Hiện nay, công ty là loại hình kinh doanh phát triển rất mạnh mẽ. Công ty là một tổ chức kinh tế được các thành viên góp vốn, thành lập dựa trên thỏa thuận về quản lý, điều hành, thường gọi là Điều lệ và có thể huy động vốn góp theo từng loại hình công ty cụ thể. Thuật ngữ doanh nghiệp hay công ty, loại hình phổ biến nhất đều có điểm chung là tổ chức kinh tế với mục đích kinh doanh [3, tr 9]. Luật doanh nghiệp Việt Nam năm 2020 đã ghi nhận khái niệm này: “doanh nghiệp được hiểu là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch, được thành lập hoặc đăng ký thành lập theo quy định của pháp luật nhằm mục đích kinh doanh” [110, khoản 10 Điều 4]. “Pháp luật của nhiều nước không có khái niệm chung về “doanh nghiệp” (enterprise) mà chỉ đưa ra định nghĩa pháp lý về từng loại hình doanh nghiệp, nội hàm của khái niệm doanh nghiệp được giải nghĩa thông qua việc chế định đặc điểm pháp lý của những hình thức tổ chức kinh doanh cụ thể (cá nhân kinh doanh, hợp danh, công ty…). Lúc này, khái niệm doanh nghiệp đồng nghĩa với khái niệm chủ thể kinh doanh (business entity)” [23, tr 64].

Các loại hình doanh nghiệp bao gồm: DNTN, Công ty TNHH, CTCP và CTHD. Cách phân loại đó trong pháp luật doanh nghiệp của Việt Nam dựa trên cách thức tổ chức doanh nghiệp theo các mô hình kinh doanh. Phân loại theo hình thức và nguồn gốc vốn chủ sở hữu, doanh nghiệp được phân chia thành: doanh nghiệp trong nước (là doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có nguồn vốn ngoài nhà nước) và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Doanh nghiệp

và pháp nhân là hai khái niệm không đồng nhất với nhau và được sử dụng cho các mục đích khác nhau. Đề cập đến doanh nghiệp là nhắc đến mô hình kinh doanh của tổ chức có quy mô hoạt động nhất định nhằm mục đích sinh lợi nhuận. Còn pháp nhân được hiểu là chủ thể của quan hệ pháp luật với các đặc trưng như tính chịu trách nhiệm hữu hạn đối với các nghĩa vụ về tài sản trong phạm vi tài sản pháp nhân có, sự tách biệt tài sản giữa pháp nhân và chủ sở hữu góp vốn thành lập pháp nhân. Do đó, người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp và người đại diện theo pháp luật pháp nhân cũng không đồng nhất với nhau. Bởi lẽ, có trường hợp doanh nghiệp có tư cách pháp nhân (Công ty cổ phần, Công ty TNHH, Công ty hợp danh) và có doanh nghiệp không có tư cách pháp nhân (Doanh nghiệp tư nhân). Ngược lại, có một số trường hợp như tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức chính trị xã hội nghề nghiệp… là pháp nhân nhưng không phải là doanh nghiệp. Trong phạm vi của luận án, khái niệm doanh nghiệp được trình bày trong luận án không bao gồm loại hình doanh nghiệp tư nhân mà tập trung vào các công ty có tư cách pháp nhân.

Khái niệm về ĐDTPL của doanh nghiệp được quy định độc lập trong văn bản pháp luật doanh nghiệp một số quốc gia như Trung Quốc, Việt Nam và không hiện diện trong hệ thống pháp luật các nước Pháp, Anh, Mỹ, Nga.

Với nguyên tắc, pháp nhân là thực thể pháp lý nhân tạo, do đó cần có ĐDTPL, vấn đề này được BLDS Việt Nam năm 2015 và LDN năm 2020 quy định. Hay nói cách khác, những nguyên tắc pháp lý trong hoạt động đại diện của doanh nghiệp dựa trên nền tảng quy định của pháp luật về đại diện của pháp nhân tại BLDS năm 2015. Điều 12 LDN năm 2020 đã ghi nhận: “ĐDTPL của doanh nghiệp là người đại diện nhân danh và vì lợi ích của doanh nghiệp, đại diện cho doanh nghiệp với tư cách người yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự, nguyên đơn,bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài, Tòa án và các quyền, nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật”. Đó là các cá nhân được pháp nhân chỉ định theo Điều lệ hoặc là người có thẩm quyền đại diện theo quy định của pháp luật hoặc là người do Toà án chỉ định trong quá trình tố tụng tại Tòa án.

So sánh với pháp luật Trung quốc, có thể thấy quy định tương đồng với pháp luật doanh nghiệp Việt Nam. Bộ luật Dân sự Trung Quốc năm 2020 có

quy định: “Theo quy định của pháp luật hoặc Điều lệ của pháp nhân, người chịu trách nhiệm về các giao dịch nhân danh pháp nhân là người đại diện theo pháp luật” [116, Điều 38]. Rò ràng, khải niệm đã chỉ rò người có quyền hạn thay mặt pháp nhân là người ĐDTPL của pháp nhân. Đối với Công ty TNHH và CTCP, trong Luật Công ty Trung Quốc năm 1993, sửa đổi bổ sung năm 2013 quy định rò vị trí của người ĐDTPL: Chủ tich HĐTV là người ĐDTPL của Công ty TNHH [124, Điều 45], Chủ tịch HĐQT là người ĐDTPL của CTCP [124, Điều 68]. Luật Trung Quốc quy định chức danh người ĐDTPL riêng tương tự Việt Nam.

Trong quy định của pháp luật Pháp, người đại diện pháp lý của công ty chính là người thực hiện các hành động pháp lý nhân danh công ty và bảo vệ lợi ích của công ty. Đó là có nhiều quyền hạn nhất trong công ty, tùy thuộc vào vị trí của người đó là cổ đông hay thành viên hợp danh. Các nhà lập pháp nước Pháp quan niệm pháp nhân là một sinh vật hư cấu không có năng lực hành vi và không thể thể hiện ý chí của mình, do đó phải thực hiện hành vi pháp lý thông qua người đại diện. Bộ luật Thương mại Pháp không ghi nhận khái niệm đó độc lập mà quy định quyền đại diện thay mặt Công ty trong mọi hoạt động cho người đại diện Đó có thể là người quản lý trong Công ty TNHH [117, Điều 223- 18] hoặc Tổng Giám đốc điều hành đối với CTCP đại chúng [117, Điều 225-56].

Tìm hiểu Luật Công ty của Anh năm 2006, sửa đổi bổ sung năm 2018 (The Company Act 2006), khái niệm ĐDTPL của doanh nghiệp không tồn tại như một chức danh độc lập. Trong công ty, Giám đốc (Director) hoặc Hội đồng giám đốc (Board of directors) tương đương với HĐQT khi công ty có quy mô lớn, giữ vai trò là người có quyền “hành động theo điều lệ của công ty và chỉ thực hiện các quyền hạn theo phạm vi, mục đích quyền lực đại diện được trao cho họ” [118, Điều 171]. Giám đốc có quyền đại diện cho doanh nghiệp theo quy định phân quyền của HĐQT. Thuật ngữ Giám đốc (Director) được định nghĩa tại Điều 250 đã chỉ ra phạm vi rộng lớn của vị trí này. Đó có thể là người nắm giữ thẩm quyền của giám đốc dưới các chức danh khác nhau, hoặc là người đã hoặc đang là giám đốc của một công ty không phụ thuộc vào việc đã được bổ nhiệm hợp lệ hay đã đăng ký theo thủ tục luật. Người không có chức danh giám đốc nhưng đã và đang thực hiện các chức năng pháp lý thực tế của một giám đốc, đưa ra các loại

Xem tất cả 207 trang.

Ngày đăng: 13/07/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí