Quyền Và Nghĩa Vụ Của Người Đại Diện Theo Pháp Luật Đối Với Doanh Nghiệp

giấy tờ nhân danh công ty cùng mọi việc làm của người ấy đều ràng buộc công ty”[6,tr 330, 131].

Một trong những khó khăn trong việc áp dụng quy định về phân định thẩm quyền đại diện của người đại diện trong trường hợp doanh nghiệp có nhiều người đại diện trong LDN năm 2014 cũng được phân tích khá nhiều. Các nhà nghiên cứu có sự phân tích và đánh giá cao quy định của LDN năm 2014 trong việc cho doanh nghiệp được quyền tự do xác định số lượng, chức danh người ĐDTPL của doanh nghiệp. Tuy nhiên bên cạnh đó, các tác giả cũng chỉ rò khó khăn trong việc áp dụng quy định của pháp luật về trường hợp doanh nghiệp có nhiều người ĐDTPL, đó là cơ chế công bố thông tin, tiếp cận thông tin về người ĐDTPL và trách nhiệm của doanh nghiệp với người thứ ba. Điều đó được thể hiện rò trong các bài viết của Ngô Gia Hoàng và Nguyễn Thị Thương (trong bài viết “Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp theo LDN năm 2014 dưới góc độ quyền tự do kinh doanh” đăng Tạp chí Nhà nước và Pháp luật tháng 7/2016), Đỗ Văn Đại và Lê Thị Hồng Vân (trong bài viết: “Hoàn thiện quy định về đại diện trong Dự thảo Bộ luật dân sự sửa đổi” trong tạp chí Kiểm sát số 22 tháng 11/2015); Nguyễn Vũ Hoàng (trong bài viết “Chế định đại diện trong pháp luật Việt Nam và vấn đề đặt ra trong thực tiễn áp dụng” đăng trên Tạp chí Luật học tháng 2/2013).

Bàn về phạm vi thẩm quyền đại diện từ góc độ pháp luật dân sự, các học giả phân tích phạm vi, thẩm quyền đại diện, thời hạn đại diện theo quy định của BLDS năm 2015 trong các công trình nghiên cứu như: cuốn sách “Luận giải về Luật Doanh nghiệp” của Luật gia Trương Thanh Đức, được xuất bản năm 2016 tại Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia; Kỷ yếu Hội thảo về “Luật Doanh nghiệp năm 2014 và Luật Đầu tư năm 2014 – những đổi mới nhằm hiện thực hóa quyền tự do kinh doanh” được tổ chức tại Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh năm 2015. Những công trình này có vai trò quan trọng trong tiến trình tiếp thu ý kiến sửa đổi để xây dựng LDN năm 2020.

Tựu chung lại, các công trình nghiên cứu được thực hiện trong quá trình sửa đổi, bổ sung BLDS năm 2015 và bình luận LDN năm 2014 nên có các nhà nghiên cứu có nhiều luận giải xuất phát từ thực tiễn. Luật doanh nghiệp năm

2020 mới ban hành chưa có nhiều công trình trực tiếp phân tích quy định tại văn bản luật này.

1.1.4. Quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật đối với doanh nghiệp

Phân tích vai trò của các Giám đốc với tư cách là người đại diện của Công ty trong pháp luật , nhà nghiên cứu Asley Kuyper đã làm phân tích sâu thêm vấn đề lợi ích của các cổ đông và vai trò của các Giám đốc từ lý thuyết đại diện (Agency Theory). Người viết phân tích mâu thuẫn giữa lợi ích của chủ sở hữu – cổ đông (Shareholders) và người nắm giữ quyền quản lý – đại diện cho công ty (các thành viên HĐQT - Director).Mâu thuẫn này tồn tại khi tách biệt giữa quyền sở hữu và quyền điều hành. Theo đó, các Giám đốc (có quyền đại diện cho doanh nghiệp) luôn mong muốn sử dụng tiền để mở rộng hoạt động kinh doanh, khiến vị trí của họ ổn định hơn, lương thưởng và quyền lực lớn hơn. Đồng thời họ có xu hướng đầu tư vào những lĩnh vực phù hợp với kỹ năng và lợi ích của mình chứ không nhất thiết là lĩnh vực mà chủ sở hữu mong muốn. Đối với các công ty lớn, có lịch sử hoạt động lâu, dòng tiền vốn nhàn rỗi lớn thì nguy cơ Giám đốc (Director) sử dụng tiền vào mục đích riêng có khả năng xuất hiện mà việc kiểm soát không hề đơn giản [83].

Trong khoa học pháp lý, nghĩa vụ của người đại diện trong pháp luật Anh, Mỹ và Đức được phân tích đối sánh với nhau cho thấy nhiều thông tin có giá trị. Cụ thể: vị trí và thẩm quyền của người đại diện được xác định theo quy định của pháp luật, Điều lệ hoặc hợp đồng thì những nghĩa vụ của người đại diện như: trung thành, ngay tình, cẩn trọng được đề cao nhằm bảo vệ lợi ích của doanh nghiệp. Các nhà nghiên cứu đã phân tích các dấu hiệu cụ thể và viện dẫn hai án lệ của Tòa án Anh, Tòa án Bang Delaware của Mỹ nhằm xác định các hành vi vi phạm [59; tr 332 - 368]. Các vấn đề đó được phân tích chi tiết trong tác phẩm: “Comparative Company Law” (Luật công ty so sánh) của Andreas Cahn và David C.Donald.

Giải thích cụ thể về nghĩa vụ trung thành, nghĩa vụ cẩn trọng, nghĩa vụ thực hiện theo thẩm quyền, phân chia các nghĩa vụ và trách nhiệm pháp lý, trách nhiệm bồi thường và miễn trừ, thời hạn, bảo hiểm nghề nghiệp cho người đại diện được Karin Madisson nghiên cứu trong luận văn thạc sĩ của mình tại Trường Luật Riga, Estonia: “Duties and liabilities of company director under German and

Estonian Law: a comparative analysis” (Những nghĩa vụ và trách nhiệm của giám đốc công ty theo quy định của pháp luật Đức và Estonia: một phân tích so sánh) năm 2012. Nhà nghiên cứu đó đã đã định nghĩa nghĩa vụ cẩn trọng được hiểu là “người đại diện của công ty phải quản lý công ty vì lợi ích tốt nhất của công ty và với sự siêng năng thường được trông đợi ở một vị trí tương tự”[73;tr.19], và nghĩa vụ trung thành được hiểu là “nghĩa vụ bảo vệ lợi ích của công ty”. Đối sánh với các quy định của pháp luật trong Luật Thương mại Việt Nam năm 2005; LDN năm 2005, tác giả Hồ Ngọc Hiển đã nhận xét: “pháp luật Việt Nam quy định không rò ràng về nghĩa vụ trung thành và nghĩa vụ cẩn trọng của người đại diện” [26; tr127].

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 207 trang tài liệu này.

Nhằm làm rò nghĩa vụ trung thành được quy định trong pháp luật doanh nghiệp, Nguyễn Hoàng Duy đã phân tích cụm từ “lợi ích công ty”: “Người đại diện khi xác lập, thực hiện giao dịch phải nhìn nhận công ty như một thực thể đang tồn tại, phát triển và phải cân bằng những lợi ích dài hạn với những lợi ích trước mắt của những thành viên đang hiện hữu. Hay nói cách khác, đó là sự phát triển bền vững. Sẽ không được coi là vì lợi ích của công ty nếu họ hành động vì lợi ích của bản thân hoặc vì lợi ích của bên thứ ba mà không xem xét đến lợi ích của công ty”[13; tr35].

Việc liệt kê các nghĩa vụ đặc thù của người ĐDTPL được nhiều công trình đề cập khá đầy đủ, bao gồm: các nghĩa vụ với bên ngoài như công bố hoặc ủy quyền công bố thông tin của doanh nghiệp; gửi và chịu trách nhiệm về thay đổi trong hồ sơ đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp; gửi và chịu trách nhiệm về hồ sơ giải thể của doanh nghiệp, hồ sơ chấm dứt hoạt động của chi nhánh, văn phòng đại diện. Các nghĩa vụ của người ĐDTPL của doanh nghiệp đối với doanh nghiệp và các cổ đông như nghĩa vụ hành động trung thực, nghĩa vụ cẩn trọng, trung thành và hành động vì lợi ích cao nhất của công ty. Đó là các nhà nghiên cứu: Hồ Ngọc Hiển trong bài viết “Nghĩa vụ của người đại diện và người ủy quyền theo pháp luật kinh doanh của Hoa Kỳ trong sự so sánh với các quy định của pháp luật tương ứng của Việt Nam” (2007), Nguyễn Minh Tuấn trong công trình “Một số vấn đề pháp lý về quyền và nghĩa vụ của người quản lý Công ty” (2018).

Đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp theo pháp luật doanh nghiệp Việt Nam hiện nay - 4

Qua việc tìm hiểu các công trình nghiên cứu trên, tác giả nhận thấy: khi xem xét nghĩa vụ của người đại diện cần có sự phân biệt với người quản lý doanh nghiệp. Cả hai đều có những nghĩa vụ chung như nghĩa vụ trung thực, cẩn trọng, trung thành và hành động vì lợi ích của doanh nghiệp song có những điểm khác biết do thẩm quyền đại diện bên ngoài của người ĐDTPL. Bên cạnh đó, các nghĩa vụ của người ĐDTPL xem xét từ góc độ quản trị doanh nghiệp liên quan trực tiếp đến trách nhiệm trong việc ban hành các quyết định quan trọng hay kết quả kinh doanh của công ty cũng cần được làm rò hơn.

Nhìn chung, những luận giải của những nhà nghiên cứu về người ĐDTPL nói chung và quyền, nghĩa vụ của người ĐDTPL nói riêng có ý nghĩa to lớn đối với việc giải thích quy định của pháp luật doanh nghiệp hiện nay.

1.1.5. Trách nhiệm của người đại diện theo pháp luật và của doanh nghiệp đối với bên thứ ba

Trong mối quan hệ với bên thứ ba, trách nhiệm của doanh nghiệp liên quan đến hành vi của người ĐDTPL là không thể trốn tránh, căn cứ vào các điều kiện: “Hành vi quản lý và điều hành kinh doanh của người đại diện theo pháp luật (Legal representative) được coi là hành động của công ty, nói cách khác, công ty sẽ phải chịu trách nhiệm đối với hành vi của người đại diện theo pháp luật đối với bên thứ ba. Trong trường hợp thỏa thuận với bên thứ ba không thuộc thẩm quyền của người đại diện theo pháp luật, công ty vẫn phải chịu trách nhiệm về việc thực hiện đúng hợp đồng mà người đại diện hợp pháp đã xác lập, trừ phi bên thứ ba biết hoặc phải biết rằng người đại diện đã hành động vượt quá phạm vi thẩm quyền của mình”[72;tr.58]. Rò ràng, khi nghiên cứu về quy định của pháp luật Trung Quốc, Giovanni Pisacane đã chỉ rò trong giao dịch với người ĐDTPL, việc xem xét yếu tố ngay tình của người thứ ba là điều kiện quan trọng nhất để xác định trách nhiệm của doanh nghiệp.

Một trong các vấn đề đáng quan tâm là quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba trong các giao dịch với doanh nghiệp do người ĐDTPL xác lập, thực hiện mà thuộc vào trường hợp giao dịch vượt quá thẩm quyền đại diện hoặc không có thẩm quyền đại diện được Eric Rasmusen trong cuốn sách “Agency Law and Contract information” (Pháp luật về đại diện và thông tin trong hợp đồng) phân tích chi tiết. Bên thứ ba phải gánh chịu thiệt hại trong giao dịch vượt

quá thẩm quyền trong các trường hợp: bên thứ ba phải có nghĩa vụ biết về thẩm quyền của người đại diện, bên thứ ba đã được thông tin về giao dịch, có sự hợp tác giữa bên thứ ba và người đại diện trong xác lập giao dịch lỗi đó, các bên có thỏa thuận trước [66, tr23-27]. Có thể thấy thiệt hại do bên thứ ba gánh chịu được chia sẻ cho người đại diện, người được đại diện và bên thứ ba tùy theo lỗi của các bên.

Rodedick Munday có nhấn mạnh đến trách nhiệm của bên được đại diện đối với người thứ ba trong cuốn sách: “Agency Law and Principles” (Luật và các nguyên tắc về đại diện) (Nhà xuất bản Đại học Oxford năm 2010). Học giả đánh giá cao nguyên tắc: “bất cứ sự hạn chế hoặc sửa đổi nào về quyền hạn đại diện của những người quản lý không được áp dụng nhằm chống lại những người thứ ba ngay tình. Nội dung tiến bộ của nguyên tắc đó là tránh trường hợp hành động của những người quản lý trong nội bộ công ty đưa ra những quyết định như sửa đổi điều lệ, các văn bản nội bộ nhằm thay đổi quyền hạn của người đại diện với mục đích để gây bất lợi hoặc chối bỏ trách nhiệm đối với bên thứ ba”[60; tr48].

Cùng chung quan điểm về bảo vệ quyền lợi người thứ ba trong quan hệ đại diện, nhà nghiên cứu Đỗ Văn Đại đã nghiên cứu và bình luận trong góp ý về Dự thảo BLDS năm 2015 phần phạm vi đại diện theo pháp luật: “Ở Pháp, để bảo vệ cho người thứ ba, án lệ Pháp đã phải can thiệp theo hướng: trong mối quan hệ với người thứ ba, công ty chịu sự ràng buộc của giao dịch do chủ tịch hội đồng quản trị xác lập cho dù không phù hợp với mục đích hoạt động của công ty, trừ trường hợp người thứ ba đã biết hoặc đã phải biết giao dịch đó vượt quá mục đích hoạt động (CA Orléans, ch. com., 24 nov. 2011, n° 10/03266). Ở đây chúng ta thấy họ bảo vệ người thứ ba rất triệt để” [15].

Nhấn mạnh đến trách nhiệm của doanh nghiệp đối với người thứ ba trong giao kết hợp đồng từ góc độ thực tiễn có nhiều công trình nghiên cứu như bài viết “Quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao kết hợp đồng với người không phải đại diện theo pháp luật của công ty” của Phạm Văn Cường [12], bài viết: “Bảo vệ quyền lợi của người thứ ba trong Công ty có nhiều người đại diện theo pháp luật” của Nguyễn Hợp Toàn [47, tr31-33]. Các bài viết này đã chỉ ra nguyên nhân cũng như những điểm chưa hợp lý trong quy định tại BLDS năm 2015 và LDN năm 2014 liên quan đến trách nhiệm đối với bên thứ ba. Việc thực

hiện giao dịch chưa được bảo đảm, việc xác định người có thẩm quyền đại diện của doanh nghiệp chưa được hiểu một cách tường minh dẫn đến phát sinh nhiều tranh chấp về quyền lợi và nghĩa vụ. Có thể khẳng định những ý kiến của trong các công trình nghiên cứu của các nhà nghiên cứu có ý nghĩa nhất định.

Bảo vệ người thứ ba còn được nhìn nhận ở các khía cạnh khác trong đó có các quy định về phá sản doanh nghiệp. Người đại diện của công ty phải chịu trách nhiệm pháp lý khi vi phạm nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu phá sản nhằm bồi thường cho các chủ nợ, khi không thực hiện các hoạt động bảo toàn vốn nhằm hạn chế thiệt hại gây ra cho các chủ nợ. Có thể thấy đặc thù riêng trong việc xác định trách nhiệm của người ĐDTPL của doanh nghiệp khi phá sản bởi nó gắn với trách nhiệm cá nhân trong quá trình điều hành doanh nghiệp và thiệt hại to lớn đối với người thứ ba. Yếu tố nữa đó là trách nhiệm cá nhân trong việc xác lập và xử lý các khoản nợ trong phá sản doanh nghiệp. Nội dung đó được Trần Anh Tú, Tạ Văn Giang nghiên cứu trong bài viết: “Điều hòa lợi ích giữa chủ nợ và con nợ thông qua thủ tục phá sản” [51], Nguyễn Ngọc Anh trong bài viết: “Các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật phá sản – một số bất cập và kiến nghị hoàn thiện” [3]. Nhìn chung, trách nhiệm người ĐDTPL và doanh nghiệp đối với bên thứ ba được phân tích và so sánh với pháp luật các quốc gia khác khá đầy đủ.

1.1.6. Cơ chế giám sát hoạt động và trách nhiệm pháp lý của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp

Trong mô hình quản trị doanh nghiệp có sự tách bạch giữa chủ sở hữu với người đại diện quản lý, mâu thuẫn lợi ích giữa chủ sở hữu và người đại diện, quản lý là không thể tránh khỏi. Tình trạng thông tin bất cân xứng là một rào cản trong việc tham gia quản trị doanh nghiệp. Việc thiết lập cơ chế giám sát hoạt động của người ĐDTPL là yêu cầu cấp thiết.

Nghiên cứu về chế định đại diện trong quản trị doanh nghiệp, theo LDN năm 1999, Bùi Xuân Hải kết luận: “Với bản chất quan hệ đại diện, người quản lý công ty luôn có xu hướng tìm kiếm lợi ích cá nhân cho họ hơn là luôn hành động vì lợi ích chung của công ty và cổ đông. Bởi vậy, muốn hình thành một mô hình giám sát hiệu quả thì phải có một chế độ tiền lương và thù lao thích hợp, cơ chế thông tin và giám sát hiệu quả hoạt động của người quản lý công ty là một

yếu tố rất quan trọng để hạn chế bớt khả năng tư lợi của người quản lý công ty và để họ biết giữ thái độ trung thành và hành động vì lợi ích của công ty”[22, tr21-27].

Đối với trách nhiệm pháp lý của người ĐDTPL của doanh nghiệp khi có hành vi vi phạm, các học giả nước ngoài đã phân tích vấn đề này khá kỹ. Leonid Tolstov trong luận văn “Tort liability of the director to company’s creditors” (Trách nhiệm pháp lý của Giám đốc công ty đối với các chủ nợ của công ty) tại Trường Đại học Tartu, Estonia cho rằng: xem xét vấn đề này không thể tách riêng LDN mà phải gắn liền với các quy định của pháp luật có liên quan. “Trách nhiệm của giám đốc là một chủ đề rộng liên quan đến các lĩnh vực khác nhau của pháp luật, chẳng hạn như luật công ty, luật về nghĩa vụ, luật hợp đồng và luật bồi thường, luật hình sự và luật thuế”[74; tr 14].

Một số bài viết khác có nêu thực tiễn người ĐDTPL tham gia tố tụng dân sự tại Tòa án. Bài viết “Về vấn đề không xác định được địa chỉ người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp trong thụ lý, giải quyết vụ án dân sự” của Nguyễn Thị Hạnh đăng trên tạp chí Tòa án số 19 năm 2013 [24, tr32-35] hay bài viết “Thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với những doanh nghiệp vắng người đại diện hợp pháp” của Nguyễn Công Lực đăng trên tạp chí Tòa án số 13 năm 2012 [33, tr 7-8], bài viết “Về thủ tục khởi kiện đối với doanh nghiệp có nhiều người đại diện theo pháp luật” của tác giả Vĩnh Sơn đăng trên tạp chí Tòa án nhân dân điện tử tháng 10 năm 2018 [41, tr15-21]. Trong các bài viết này, người viết đã nêu khó khăn trong thực tiễn khi người ĐDTPL đã đi khỏi nơi cư trú, không xác định được địa chỉ, việc xét xử hay thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của doanh nghiệp đó tại Tòa án nhân dân các cấp không thống nhất do chưa xác định rò tư cách pháp lý của người ĐDTPL. Vấn đề này đã được LDN năm 2014, LDN năm 2020 hiện hành giải quyết qua điểm sửa đổi, bổ sung: người ĐDTPL của pháp nhân là người được cơ quan Tòa án chỉ định trong quá trình tham gia tố tụng.

1.2. Đánh giá tình hình nghiên cứu và các vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu

1.2.1. Những kết quả đạt được

Thứ nhất, các tác giả trong và ngoài nước đã hệ thống hóa, phân tích các lý thuyết pháp lý cơ bản về bản chất pháp lý của doanh nghiệp. Đây là nền tảng lí luận để hiểu rò hơn mô hình đại diện của doanh nghiệp hiện nay ở Việt Nam cũng như trên thế giới.

Thứ hai, các công trình nghiên cứu đã chỉ rò sự cần thiết và vị trí của người ĐDTPL của doanh nghiệp trong hoạt động quản trị doanh nghiệp cũng như hoạt động kinh doanh.

Để tồn tại và vận hành bình thường, các doanh nghiệp cần có người ĐDTPL. Khẳng định đó được nhiều nhà nghiên cứu thống nhất trong các công trình khoa học trong thời gian qua. Tiêu biểu như: học giả Bùi Xuân Hải trong “Lý thuyết về đại diện và mấy vấn đề của pháp luật công ty Việt Nam", Tạp chí Khoa học Pháp lý 2007, số 4 (14); tác giả Ngô Huy Cương trong bài viết “Chế định đại diện theo quy định của pháp luật Việt Nam – nhìn từ góc độ luật so sánh”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 4/2009; Luật gia Trương Thanh Đức với bài viết “Bình luận chế định pháp nhân và đại diện pháp nhân trong Bộ luật Dân sự năm 2005” trong Kỷ yếu Hội thảo sửa đổi, bổ sung Bộ Luật Dân sự năm 2005 do Bộ Tư pháp tổ chức 30/82011, Lê Văn Thiệp trong bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về đại diện theo pháp luật”, Tạp chí Kiểm sát, Số Tân Xuân năm 2012 hay nhà nghiên cứu Vũ Thị Lan Anh trong bài “Quy định mới của LDN năm 2014 về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp”, Tạp chí Luật học số 4 năm 2016.

Thứ ba, ĐDTPL của doanh nghiệp là một hình thức quan hệ đại diện.

Dù mô hình đại diện cho doanh nghiệp ở các quốc gia khác nhau là không giống nhau thì bản chất ĐDTPL vẫn là một loại đại diện. Do đó, phần lớn các công trình nghiên cứu khoa học đều phân tích quan hệ đại diện với những đặc trưng chung, phân loại quan hệ đại diện với những yếu tố liên quan như thẩm quyền, phạm vi đại diện, quyền và nghĩa vụ của người đại diện, mối quan hệ giữa các bên trong quan hệ đại diện với các bên có liên quan... Những công trình ở nước ngoài tiêu biểu có thể kể đến như: Andreas Cahn và David C.Donald với sách chuyên khảo: “Comprative Company Law” (Luật công ty so sánh); Brenda Hannigan với “Company Law” (Luật Công ty), Paul L. Davies với công trình “Gower’s Principles of Modern Company Law” (Nguyên tắc của Luật Công ty hiện đại) và Ewan McGaughey với cuốn sách “Participation in corporate governance” tại London School of Economics and Political Science…

Các công trình trong nước có trực tiếp đề cập tới quy định của pháp luật Việt Nam rất đa dạng, bao gồm: Bài viết “Chế định đại diện theo quy định của

Xem tất cả 207 trang.

Ngày đăng: 13/07/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí