Đặc điểm trường ca Hữu Thỉnh - 10


Việt. Tiếng Việt như ngọn cờ ngoài khơi, trên những con tàu đang bảo vệ chủ quyền của đất nước, nó thiêng liêng và hùng vĩ biết bao.

Với Hữu Thỉnh đất nước còn được nhìn thấy từ trong những nét văn hóa dân gian. Đến với thơ từ ngôi đền văn hóa dân gian, bằng vốn kiến thức phong phú về văn hóa dân gian Hữu Thỉnh đã chuyển tải những hình ảnh đất nước theo cách riêng của mình. Tác giả đã dựng lên hình ảnh về đất nước với bao trầm tích :


Hay :

Ta bới sóng đi tìm các dòng sông Gặp Trương Chi cắm sào đứng hát Mỵ Nương vẫn đang ngồi khóc

Nước mắt thành ngọc trai...

Ta bới sóng đi tìm các dòng sông Gặp nàng Tiên Dung đội cát

(Trường ca biển)


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 127 trang tài liệu này.

Đất nước ngày có giặc Mẹ vẫn đỏ miếng trầu

Ấm một vùng tin cậy phía sau lưng

Đặc điểm trường ca Hữu Thỉnh - 10

(Sức bền của đất)

Hóa ra tất cả những gì bình dị nhất, ngay cả chỉ một dòng sông cũng chất chứa bao huyền thoại. Đó không chỉ là dòng sông tự nhiên nữa mà nó còn là dòng sông của những cổ tích, truyền thuyết... hằn sâu theo năm tháng. Và Hình ảnh miếng trầu gợi nhắc đến tình nghĩa anh em, chồng vợ, được nuôi dưỡng qua các thế hệ. Nó đã thấm vào máu thịt, vào tâm hồn mỗi người dân Việt. Với những người lính, miếng trầu không chỉ gợi nhắc sự thủy chung, son sắt mà hơn nữa còn khẳng định một chân lí, chính mẹ, quê hương là điểm tựa vững chắc cho người lính chiến thắng kẻ thù. Hình ảnh miếng trầu xuất


hiện rất nhiều trong thơ ca, nhưng với Hữu Thỉnh đó là miếng trầu của niềm tin, của hơi ấm, là tình mẹ thiêng liêng.

Cùng mạch cảm nghĩ ấy, Nguyễn Đức Mậu đã dựng lên hình ảnh một đất nước thật cụ thể mà xúc động :

Chúng tôi lớn lên đã có mưa ngâu Đã có miếng trầu lá xanh, vôi trắng

Đã có đá mài gươm, đã vàng tre làng Gióng Ông đồ rau đội nồi cháo loãng

Lửa nhen lời cổ tích thâu đêm

(Trường ca sư đoàn)

Tìm về những giá trị truyền thống của dân tộc là nhà thơ đang tìm về những giá trị bền vững góp phần làm nên bản sắc văn hóa dân tộc. Đây cũng chính là hình thức nhà thơ góp sức vào sự phát triển giá trị văn hóa dân tộc, tiếp "lửa" truyền thống cho thế hệ sau. Phải chăng đây cũng chính là một trong những yếu tố góp phần tạo nên sức sống lâu bền cho thơ Hữu Thỉnh.

Đất nước không chỉ là những gì bình dị nhất, chứa đựng hồn dân tộc. Đất nước còn được Hữu Thỉnh nhìn qua những người con ưu tú của dân tộc. Với một thái độ thành kính, ngưỡng mộ, Hữu Thỉnh đã có những vần thơ thật xúc động về những con người ấy. Không chỉ Tố Hữu, Hoàng Trung Thông..mà ngay cả Hữu Thỉnh cũng có những vần thơ thật xúc động về Bác – vị cha già của dân tộc. Trở về nơi Bác đã ra đi tìm đường cứu nước, nhìn cảnh sông nước bến Nhà Rồng lại nghĩ đến Bác, mong ước được nghe Bác nói, được nghe Bác đọc thơ khi mỗi độ xuân về :

Đã trở về từng hạt muối ngoài khơi

Từng đọt măng trên rừng, từng đám mây lưu lạc Tất cả dưới bàn tay của Bác

Hóa thiêng liêng máu thịt tự hào


Chúng con thèm nghe Bác nói một câu Giữa bến Nhà Rồng mênh mông sóng nước Thèm nghe thơ, thèm đôi tay bắt nhịp

Để vui hết được những gì ta có hôm nay

(Đường tới thành phố)

Đó còn là tình cảm ngưỡng mộ với sự hy sinh dũng cảm của anh hùng Nguyễn Văn Trỗi :

Nếu anh còn giờ này anh ở đâu ? Anh Trỗi Đeo quanh anh không phải những vòng hoa

Không nguyệt quế, không cầu vồng huyền hoặc Đeo quanh anh là những vòng người

(Đường tới thành phố)

Như vậy, có thể khẳng định hình tượng Tổ quốc là hình tượng nổi bật trong thơ Hữu Thỉnh nói chung và trong trường ca của ông nói riêng. Viết về đất nước bằng tình cảm chân thành và thành kính, Hữu Thỉnh đã dựng lên trước mắt người đọc hình ảnh một đất nước dù đau thương nhưng vẫn vững vàng, đẹp rạng ngời. Đó là vẻ đẹp của một dân tộc với bề dày văn hóa, chính nghĩa và đang ngày một khởi sắc dù cho bao mưa bom bão đạn, mất mát do chiến tranh gây ra. Đó là hình ảnh những người con ưu tú của dân tộc, là những vật báu luôn toả sáng với các thế hệ bởi công lao bảo vệ gìn giữ và dựng xây đất nước.

2.4. Hình tượng biển

Theo khảo sát của chúng tôi, hình tượng biển xuất hiện khá nhiều trong thơ và trong trường ca Hữu Thỉnh. Trong đó có một số bài xuất hiện dày đặc như: “Tôi đi bào ngư” (Tiếng hát trong rừng): 7 lần; “Phan Thiết có anh tôi” (Thư mùa đông): 6 lần; đặc biệt ông dành hẳn một trường ca để nói về biển đó là “Trường ca biển”, trong đó có những bài như “Đối thoại biển”


xuất hiện 22 lần hình ảnh biển, “Bão biển”: 13 lần,“Hóa thạch những dòng sông”: 14 lần...

Trước hết, biển trong thơ Hữu Thỉnh biểu trưng cho khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp. Với người lính đảo biển hiện lên thật nên thơ:

Đảo vắng cỏ non vẫn biết mùa xuân đến Khi trông bờ ngắm một lá thư thăm

Biển xanh quá ước gì anh gói được Nhờ con tàu bè bạn đến tay em

(Gửi từ đảo nhỏ - Tiếng hát trong rừng)

Qua cánh cửa hầm chật hẹp, lần đầu tiên thấy biển tươi đẹp dường như người lính thấy quên hết nhọc nhằn sau chặng đường hành quân:

Chính ở đây anh thấy biển lần đầu Qua cửa hầm

Sau những ngày vượt dốc

Biển thì rộng căn hầm quá chật Khẽ trở mình cát trắng đổ hai vai

(Phan Thiết có anh tôi - Thư mùa đông)

Không chỉ với người lính, mà với mỗi người trong chúng ta khi thấy biển lần đầu đều không khỏi kinh ngạc và thán phục bởi cái vô biên, rộng lớn của nó. Biển luôn gắn mình với cát, khi ra với biển người lính lại được hòa mình vào cát, làm bạn với cát, đôi lúc chỉ cần khẽ trở mình cát trắng đổ hai vai.

Việt Nam là một trong những nước tự hào có bờ biển dài và cả những hòn đảo đã đi vào lịch sử: Hoàng Sa, Trường Sa... Biển đảo với đất liền tuy xa mà gần bởi đó là một phần lãnh thổ của Tổ quốc. Theo quan niệm của nhà thơ, biển đảo còn là một bộ phận của giang sơn Tổ quốc và người lính không khỏi tự hào khi được làm chủ vùng biển đảo của Tổ quốc:


Những đảo xa

Những quả trứng dập dờn giữa sóng Những nhớ thương không ở ngoài tầm Đất nước...

(Trường ca biển)

Đặc biệt trong “Trường ca biển”, hình ảnh gió, cát, biển được nhà thơ nói đến nhiều lần, nhưng nó không đơn thuần là hình ảnh thiên nhiên mà trở thành biểu tượng, hình hài của Tổ quốc:

Biển có đảo biển đỡ lặp lại mình Đảo có lính cát non thành Tổ quốc

(Trường ca biển)

Đứng trước biển hùng vĩ,đôi lúc tác giả đã suy tư, trăn trở về lẽ sống tình đời, lấy biển để biểu trưng cho lẽ sống cuộc đời. Lấy sự mênh mông của biển cả để làm tiền đề suy tư và khát vọng tình yêu không còn xa lạ trong thơ, nhưng đọc thơ Hữu Thỉnh ta vẫn thấy được nét mới mẻ, bất ngờ. Đã có lúc nhân vật trữ tình trong thơ ông đứng trước biển để tự vấn về tình yêu không trọn vẹn của mình:

Anh phải nói vòng vo anh yêu biển Anh yêu trời để thú nhận yêu em Anh cứ khen người tốt đôi tốt lứa Để giấu đi bao nỗi xót xa thầm

(Tạm biệt Sầm Sơn – Thư mùa đông)

Và đôi lúc đứng trước biển mênh mông ông nhận ra sự chông chênh, trống vắng của con người và đưa ra cách triết lí về tình yêu của riêng mình:

Biển vẫn cậy mình dài rộng thế Vắng cánh buồm một chút đã cô đơn

(Thơ viết ở biển – Thư mùa đông)


Không phải ngẫu nhiên mà Hữu Thỉnh dành hẳn một trường ca để nói về biển. Khi chiến tranh lùi xa, tưởng như tất cả lại trở về với sự bình yên thì người lính lại đứng trước một thử thách cũng không kém phần nguy hiểm, khó khăn đó là đứng trước biển cả mênh mông. Những người lính đã đi qua bao thác lũ, núi đèo và bây giờ họ đến với biển:

Tôi đã đi suốt hai đầu đất nước

Những vết thương của tôi còn nhiều hơn cả tuổi đời

(Trường ca biển)

Lần đầu tiên đứng trước biển họ có biết bao tâm sự, băn khoăn trong lòng. Họ luôn đặt cho mình câu hỏi: “Tôi phải làm gì?”. Mặc dù người lính đã từng trải nghiệm qua biết bao gian nan, hiểm nguy trong chiến tranh cũng như kinh nghiệm trong cuộc sống và cả kinh nghiệm người đi trước để lại:

Mẹ dặn tôi

Ra sông lấy sóng mà yêu

Đường xa gặp núi lấy đèo mà tin Tôi đã tin và chưa hề bị ngã

(Trường ca biển)

Nhưng giờ đây đứng trước biển, từng ấy kinh nghiệm với người lính vẫn chưa đủ, bởi với biển thì khác: “không ngã chưa hẳn đã khỏi chìm”. Môi trường biển chẳng dễ dàng gì với người lính đảo, chạm vào thực tế nghiệt ngã của biển cả, người lính mới nhận ra những kinh nghiệm trước đây vẫn chưa đủ:

Bao vốn liếng cả một đời cóp nhặt Bước xuống tàu trở thành kẻ tay không

(Trường ca biển)

Và người lính lại bắt đầu làm quen với cuộc sống mới và biển đảo sẽ dạy cho họ những kinh nghiệm mới:

- Cấm đi câu đi tắm một mình

Xuống nước phải mang theo dao găm


- Cấm bơi xa miệng vực Nhất thiết phải bơi đứng

Cá mập không quen săn mồi thẳng

(Trường ca biển)

Đọc cả bản trường ca, có lẽ ấn tượng nhất với độc giả vẫn là chương “Đối thoại biển”. Bởi đây không chỉ là cuộc đối thoại giữa người lính và biển, mà thông qua đoạn đối thoại này tác giả muốn gửi đến một triết lí sâu sắc và rất thời sự về cuộc sống: Đất nước muốn phát triển không thể chỉ dựa vào kinh nghiệm cũ, không chỉ sống mãi với ánh hào quang chiến thắng mà còn phải dựa vào bản thân và thực tiễn cuộc sống mà vươn lên. Đoạn đối thoại:

Người lính nói:

- Có bí quyết gì sau lớp sóng kia chăng Biển nói:

- Sống với nước hãy bắt đầu từ nước Người lính nói:

- Tôi đã đi suốt hai đầu đất nước Biển hiu hiu thán phục

- Những vết thương của tôi nhiều hơn cả tuổi đời Biển hiu hiu thán phục

Và biển chỉ hỏi anh đơn giản điều này

- Anh có biết bơi không?

(Đối thoại biển – Trường ca biển)

Qua cuộc đối thoại này dường như Hữu Thỉnh muốn gửi gắm triết lí: Phải thích ứng với thực tế, nhất là trong thời kì đổi mới, không chỉ ở người lính mà ở tất cả mọi người, ở toàn dân tộc.

Có thể nói, hình tượng biển là một hình tượng thơ khá nổi bật trong sáng tác của Hữu Thỉnh. Qua hình tượng này cho ta thấy cách nhìn đầy lạc


quan, trong sáng của tác giả về vẻ đẹp của biển cả quê hương. Và quan trọng hơn, dùng cách nói sáng tạo về biển nhà thơ thể hiện triết lí sâu sắc về dân tộc, đất nước, những chiêm nghiệm về lẽ đời và cách ứng xử trước thực tế có nhiều thay đổi..Nó tươi mát mà lại vững chãi, gần gũi mà sâu sắc, bình dị mà cũng vô cùng lớn lao. Trường ca biển có thể coi “như một bản giao hưởng về số phận và phẩm chất của con người Việt Nam, cảnh ngộ của dân tộc Việt Nam trong trùng điệp những thử thách éo le và khắc nghiệt. Trong bản giao hưởng đó, mỗi lời sóng là một khúc solo về số phận cá nhân xen giữa những hòa tấu phức điệu cuồn cuộn về số phận cộng đồng” (Đỗ Minh Tuấn - Diễn đàn văn nghệ Việt Nam, số 199, 2011)

Xem tất cả 127 trang.

Ngày đăng: 04/08/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí