Đặc điểm trường ca Hữu Thỉnh - 9


góc khuất của họ do chiến tranh gây ra. Tiếng kêu gào của bản thể, của những người phụ nữ trong thơ Hữu Thỉnh làm lòng ta se thắt.

Nhập thân vào nhân vật để tập trung thể hiện sự khắc khoải nội tâm để từ đó Hữu Thỉnh nhằm làm nổi bật lên lòng chung thủy của những người vợ, người chị:

Chị chờ đợi quay mặt vào đêm Hai mươi năm mong trời chóng tối Hai mươi năm cơm phần để nguội Thôi đừng ai mừng tuổi chị tôi...

(Đường tới thành phố)

Khoảng thời gian đằng đẵng hai mươi năm lặp đi lặp lại nhiều lần để diễn tả sự khắc khoải chờ đợi chồng. Nỗi nhớ như khắc, như chạm vào tim chị, như hối thúc tuổi trẻ. Thấu hiểu cảnh ngộ của chị, nhà thơ đã dựng lên chân dung một người vợ trẻ suốt bao nhiêu năm phải quay mặt vào bóng tối, quay lưng lại với nhiều cám dỗ, chấp nhận một cuộc sống cô đơn, âm thầm chung thủy chờ chồng cho đến ngày toàn thắng. Hơn nữa, mong trời chóng tối để một ngày trôi đi thật nhanh, để khỏi chứng kiến cảnh tết đến, xuân về. Cho dù xóm làng rất ý tứ không khoe con trước mặt mà nó vẫn ám ảnh, vật vã trong lòng chị. Khoảng thời gian ấy chị chịu nhiều thiệt thòi về tình cảm, phải sống trong nỗi cô đơn:

Một mình một mâm cơm Ngồi bên nào cũng lệch

Chị chôn tuổi xuân trong má lúm đồng tiền

(Đường tới thành phố)

Nguyễn Đăng Điệp đã có lời bình xác đáng về hình ảnh má lúm đồng tiền: “sao mà trớ trêu đến thế, cái lúm đồng tiền làm nên duyên con gái, là một hệ số để đo ướm giá trị con người bỗng dưng trở thành một huyệt. Mà

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 127 trang tài liệu này.


đâu chỉ có một người chị cụ thể nào, có bao người phụ nữ đã hóa đá, đã chết mòn trong nỗi khắc khoải triền miên. Ngày chiến thắng trong nụ cười đoàn tụ, ai nhớ đến để trao huy chương cho những nàng Tô Thị bao ngày im lặng “đợi chờ quay mặt vào đêm” [15]. Bi kịch của tình yêu bị đẩy lên đến đỉnh điểm khi:

Đặc điểm trường ca Hữu Thỉnh - 9

Hai mươi năm chị tôi đi đò đầy Cứ sợ đắm vì mình còn nhan sắc

(Đường tới thành phố)

Thiết nghĩ đây không phải là chuyến đò thực mà có ý nghĩa biểu tượng, là chuyến đò thân phận chở tình duyên và sắc đẹp của con người trước thời gian, trước bao sóng gió. Đó cũng là cảnh ngộ của người vợ trong thơ Trần Chấn Uy:

Đêm đêm chị lang thang dọc bến đò

Nơi ấy ngày xưa chị tiễn chồng ra trận Ba mươi năm một mình lận đận

Chị già theo những con nước đầy vơi

(Chị)

Đó là tiếng vang của nỗi nhớ, sự ngóng chờ mòn mỏi của người vợ. Hơn ai hết, nhà thơ hiểu rằng người khốn khổ nhất trong cuộc chiến tranh này là người phụ nữ. Họ là người gánh chịu nhiều thiệt thòi, nhiều cay đắng trong suốt cuộc chiến tranh.

Những khát khao làm vợ, làm mẹ vẫn luôn âm ỉ cháy trong lòng họ:

Chị thiếu anh nên chị bị thừa ra Trong giỗ Tết họ hàng nội ngoại

Bao nhiêu tiếng cười vẫn côi cút một mình Những đêm trở trời trái gió

(Đường tới thành phố)


Hình ảnh người vợ côi cút một mình dội vào lòng người đọc một cảm giác cô đơn, buồn tẻ. Nhập vào cảnh ngộ người vợ, và đi vào tận cùng ngò sâu tâm hồn họ, Hữu Thỉnh đã diễn tả tâm trạng ngập chìm trong nỗi buồn, mất mát không gì bù đắp nổi trong tình cảnh của người vợ xa chồng.

Có người vợ, chồng hy sinh phải sống cuộc đời cô đơn, lẻ loi. Con người ta có đủ sức mạnh để chịu đựng những hy sinh mất mát về vật chất, nhưng làm sao chịu đựng được sự cô đơn, làm sao sống được cả cuộc đời quạnh quẽ:

Những đêm trở trời trái gió Tay nọ ấp tay kia

Súng thon thót ngoài đồn dân vệ Một mình một mâm cơm

Ngồi bên nào cũng lệch

(Đường tới thành phố)

chị buồn như bông điệp xé đôi, bằng tuổi trẻ không bao giờ trở lại

(Đường tới thành phố).

Có một điều đặc biệt là dù cho số phận nghiệt ngã, cuộc đời người phụ nữ trong trường ca Hữu Thỉnh có gian nan đến đâu thì họ vẫn luôn lạc quan và tin tưởng vào ngày mai. Dù sự tin tưởng ấy đôi lúc chỉ là ảo vọng:

Chị vẫn tin chữ hợp cuối trang Kiều Hoa mai nở hai lần hoa có hậu

Chị vẫn tin có mùa thu xanh đền cho cuốc kêu tháng sáu Vẫn tin có ngày hái quả cho anh

(Đường tới thành phố)

Nhưng liệu rằng ý chí sắt đá của người phụ nữ có chiến thắng được những khát khao đời thường không? Hữu Thỉnh đã diễn tả rất tinh tế chiều sâu tâm lí người phụ nữ với những khao khát đời thường. Từ đó cho ta thấy


được những trạng thái trong chiều sâu tâm hồn mỗi con người, thủy chung và tin tưởng, khát khao và dồn nén, cam chịu nhưng ẩn sau đó là một sức sống mãnh liệt:

Mãn tang anh chị vẫn chưa già

...Trời còn bao nhiêu thu

Tóc chị thắm làm thắt lòng nội ngoại

(Trường ca biển)

Ngày anh không về đó là một nỗi đau không thể nào nguôi ngoai trong chị, mặc dù chị đã từng tin chữ hợp cuối trang Kiều, nhưng chiến tranh là vậy, người vợ đã từng vượt qua mưa bom bão đạn, vượt qua bao thử thách trong cuộc sống để chờ anh về và giờ đây chị lại phải chịu thêm một lần thử thách: mãn tang anh chị vẫn chưa già. Có lẽ đó là nỗi đau âm ỉ, sâu kín nhất trong còi lòng họ. Nó đóng đinh trong lòng họ suốt cuộc đời.

Khai thác vấn đề này, nhà thơ thể hiện một cái nhìn hết sức cảm thông, chia sẻ và thấu hiểu những người phụ nữ. Chính điều đó đã góp phần làm xoa dịu bớt những nỗi cay cực mà người phụ nữ phải gánh chịu:

Có người lính ở Trường Sa Đi cùng anh dạo ấy

Hôm nay lúa lại nhen đòng

Chim bay ngược bão hoa trong thiếp mời Hôm nay tái giá chị tôi

Liền anh cùng với bao người đứng trông Chị tôi đi thửa hương vòng

Ngậm ngùi trên mộ cũ

Cháu ở lại cùng bà bống bống bang bang

(Trường ca biển)

Có thể nói những dòng thơ viết về phụ nữ thường mang lại nhiều xúc động, day dứt cho người đọc. Bản thân đề tài tuy không phải mới nhưng bao


giờ cũng chứa đựng những rung cảm lớn lao với mỗi người. Hóa thân vào những người mẹ, người vợ, người chị tác giả đã khẳng định vai trò, sự đóng góp, hy sinh to lớn của người phụ nữ vào thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến. Với sự chân thật trong cảm xúc, tác giả đã khắc họa khá thành công chân dung người mẹ, người vợ trong thời kì đất nước có chiến tranh. Cuộc kháng chiến 30 năm đã làm biết bao cặp vợ chồng phải chia ly, nào ai tính được có biết bao người phụ nữ phải mòn mỏi chờ đợi hạnh phúc lứa đôi. Chất bi tráng của lòng chung thủy là sự hy sinh cao cả, là không gì lay chuyển được của lời thề trái tim mình trong tình yêu. Hóa thân vào những người mẹ, người chị, người vợ Hữu Thỉnh nhằm ca ngợi những người góp phần làm nên trang sử oanh liệt của dân tộc Việt Nam.

2.3. Hình tượng đất nước

Không chỉ riêng Hữu Thỉnh, khi viết về hình tượng đất nước tất cả các nhà thơ đều dành cho đất nước những tình cảm cao đẹp nhất. Trong văn học 1945 -1975, đất nước trở thành đề tài lớn và là hình tượng nổi bật trong thơ ca. Các nhà thơ thế hệ chống Mỹ đã xây dựng được hình tượng đất nước, vừa cụ thể, vừa khái quát. Sự hình dung về đất nước của họ thật giản dị mà thấm thía. Chưa bao giờ đất nước hiện lên cụ thể, chân thực và gần gũi đến như vậy. Với Nguyễn Khoa Điềm hình ảnh đất nước được kết tinh từ những điều bình dị nhất:

Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc... Đất là nơi anh đến trường

Nước là nơi em tắm

(Mặt đường khát vọng – Nguyễn Khoa Điềm) Hay một đất nước lớn lao, kỳ vĩ trong thơ Tố Hữu:

Ôi Tổ quốc giang sơn hùng vĩ Đất anh hùng của thế kỉ XX

(Miền Nam – Tố Hữu)


Và một đất nước thật thân thương gần gũi trong thơ Chế Lan Viên:

Ôi, Tổ quốc, ta yêu như máu thịt Như mẹ cha ta như vợ như chồng Ôi, Tổ quốc, nếu cần ta chết

Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông

Với Hữu Thỉnh, Tổ quốc trở thành hình tượng tiêu biểu trong sáng tác của ông. Tuy xuất hiện không nhiều song mỗi lần xuất hiện là mỗi lần đất nước được hiện lên với nhiều dáng vẻ khác, thể hiện sự tìm tòi mới mẻ và rất riêng của tác giả. Đặc biệt trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh thì tình cảm dành cho đất nước lại trở lên thiêng liêng hơn bao giờ hết. Đó là hình ảnh một đất nước bị chia cắt :

Khi anh hiểu nhân dân, nhân dân đang chia cắt Yêu Tổ quốc mình, Tổ quốc bị chia đôi

Nỗi đau ấy góp đời mình để xóa

(Đường tới thành phố)

Hòa mình vào nhân dân, hiểu tình cảnh nhân dân đang chia cắt, yêu Tổ quốc, gắn bó vận mệnh của mình với tổ quốc là một trong những lí tưởng của người lính. Nó đã trở thành tư tưởng chung của thời đại khi vận mệnh của dân tộc được đặt lên hàng đầu. Và hơn một lần Thanh Thảo đã từng khẳng định :

Đất nước đẹp mênh mông

Đất nước thấm sâu đến tận cùng xương thịt Chỉ riêng cho người chúng tôi dám chết

(Những người đi tới biển – Thanh Thảo)

Vâng! Nếu Tố Hữu nhìn đất nước trong mưa bom bão đạn vẫn xanh màu hy vọng: Tổ quốc tôi xanh núi, xanh sông, xanh đồng, xanh biển / Xanh trời, xanh cả những ước mơ, thì hình ảnh đất nước trong thơ Hữu Thỉnh lại gắn liền với những cảm nhận, suy tư riêng giàu tính triết luận, gắn liền với


những trải nghiệm đời lính của ông. Với Hữu Thỉnh đất nước đau thương mà vững vàng, anh hùng, nó không phải là cái gì to lớn, cao xa, trừu tượng mà hiện lên trong những gì gần gũi nhất, bình dị nhất. Tổ quốc có thể chỉ là một gốc sim cằn trong giờ phút hiểm nguy :

Trời ơi nếu kẻ thù chiếm được

Một gốc sim thôi dù chỉ gốc sim cằn Tổ quốc sẽ ra sao? Tổ quốc?

Thơ ơi thơ hãy ghì lấy gốc sim

(Đường tới thành phố) Hay với ông, Tổ quốc chỉ là một gốc cao su bé nhỏ :

Những ngày chúng ta gan góc hết mình

Một gốc cao su nửa giờ trước là ta, nửa giờ sau chúng chiếm

(Đường tới thành phố)

Có thể khẳng định, tình yêu Tổ quốc, cảm xúc về tổ quốc là một trong những tình cảm thiêng liêng và cao đẹp nhất, nó gần gũi và không còn là tình cảm xa lạ trong thơ Việt Nam. Khi đặt bước chân ra chiến trận là đồng thời người lính đã thể hiện quyết tâm dành hơi thở cuối cùng cho đất nước, Tổ quốc mình. Trong nhiều chiều lựa chọn, người lính vẫn chọn Tổ quốc lên hàng đầu. Do đó, hình ảnh Tổ quốc trong thơ hiện lên vô cùng gần gũi, nó không còn là những khái niệm trừu tượng mà trở nên máu thịt. Chẳng vậy Phạm Quang Đẩu từng khẳng định :

Tiếng Tổ quốc không còn là danh từ trừu tượng Đã trở thành thân quen

Ngôi nhà, gốc cây, đường cái, góc sân

Tổ quốc hợp thành từ những gì bình dị nhất

(Ấn tượng về người mẹ)

Hiện thực chiến tranh không bao giờ là mầu hồng bởi nơi ấy luôn có cảnh đầu rơi, máu chảy. Khi đi vào thơ, Hữu Thỉnh không hề né tránh sự thực


đau thương của Tổ quốc, mà nói lên thực trạng đó bằng những vần thơ đầy ám ảnh. Nhà thơ nhìn rò thực tế mà đất nước phải gánh chịu để ý thức rò hơn trách nhiệm của mỗi người đối với vận mệnh Tổ quốc. Nếu Nguyễn Khoa Điềm khái quát hình ảnh đất nước vơi 4000 nghìn năm lịch sử với biết bao giá trị văn hóa đẹp đẽ mà nhân dân đã bồi đắp theo năm tháng ; một đất nước được cảm nhận như là sự thống nhất ở chiều dài lịch sử, ở chiều rộng không gian địa lý và chiều sâu văn hóa ; thì Hữu Thỉnh lại khắc họa hình tượng đất nước trong đau thương "Bốn nghìn năm đất nước mấy khi yên". Đó là một đất nước luôn phải đương đầu với giặc ngoại xâm, nhưng luôn chiến thắng bởi lòng dũng cảm, kiên cường và chính nghĩa. Trữ tình và triết luận là bút pháp chủ yếu mà Hữu Thỉnh đã sử dụng khi viết về đất nước, Tổ quốc. Vì thế mà hình tượng đất nước trong thơ ông vừa mang tầm triết luận sâu sắc, lại vừa thấm đẫm cảm xúc trữ tình.

Không chỉ vậy, với Hữu Thỉnh đất nước còn được hội tụ ở những giá trị truyền thống văn hóa dân tộc. Chính những giá trị ấy là cội nguồn sức mạnh tinh thần to lớn để con người Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, thử thách :

Tiếng Việt gọi hồn Việt Giữa đất Việt ngoài khơi Tiếng Việt là ngọn cờ Hội quân trong đêm tối Tiếng Việt để nhận nhau Giữa bao nhiêu rắc rối

(Trường ca biển)

Tiếng Việt không đơn thuần chỉ là tiếng nói mà còn là giá trị văn hóa, là linh hồn của dân tộc còn lại với thời gian và đất nước, nó là tiếng kèn hiệu triệu, là bản sắc để dân tộc nhận ra nhau. Có lẽ viết những dòng thơ này nhà thơ Hữu Thỉnh một lần nữa muốn khẳng định nét độc đáo, nét riêng của tiếng

Xem tất cả 127 trang.

Ngày đăng: 04/08/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí