thu thập bằng chứng của các bên liên quan. Một chuyên gia trong lĩnh vực kiểm toán cho rằng, nguyên nhân của thực trạng này có thể là do các công ty kiểm toán nhỏ cạnh tranh gay gắt với nhau bằng giá phí thấp nhưng vẫn phải đảm bảo lợi nhuận của doanh nghiệp nên tuyển dụng kiểm toán viên có trình độ không cao, cá biệt có công ty sử dụng sinh viên thực tập để thực hiện công việc kiểm toán dẫn đến chất lượng kiểm toán bị giảm sút. Vì vậy, vấn đề ở đây là cần nâng cao trình độ chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp của mỗi kiểm toán viên trong quá trình thực hiện kiểm toán.
2.2.2. Nội dung công bố thông tin tài chính theo khuôn mẫu kế toán
Khuôn mẫu kế toán là các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực kế toán, tạo ra một hệ thống quan điểm ứng xử hợp lý và thống nhất để các đơn vị kế toán, những người làm kế toán sử dụng làm căn cứ thực hiện công tác kế toán. Các khuôn mẫu kế toán ở Việt Nam bao gồm Luật kế toán là văn bản quy phạm pháp luật cao nhất trong lĩnh vực kế toán; hệ thống chuẩn mực kế toán và chế độ kế toán. Sự tồn tại cả hệ thống chuẩn mực kế toán và chế độ kế toán thể hiện sự hội nhập của Việt Nam với thông lệ chung của kế toán quốc tế và sự quản lý thống nhất của Nhà nước về kế toán.
2.2.2.1. Luật kế toán
Luật Kế toán đầu tiên được ban hành năm 2003 thay thế Pháp lệnh về chế độ kế toán và thống kê năm 1988. Đây là văn bản pháp luật cao nhất về kế toán, đã được chuẩn hóa nhiều nguyên tắc, nội dung công tác kế toán, tổ chức bộ máy kế toán, người làm kế toán và hoạt động nghề nghiệp kế toán. Sau hơn 10 năm thực hiện Luật Kế toán 2003, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, việc mở cửa thị trường, hội nhập quốc tế dẫn đến nhiều yếu tố mới, yêu cầu mới đòi hỏi Việt Nam phải có những thay đổi căn bản trong quản lý kinh tế nói chung và công tác kế toán nói riêng. Theo đó, một số những quy định của Luật Kế toán ban hành năm 2003 đã không còn phù hợp, thiếu minh bạch và thiếu tính khả thi.
Để đáp ứng những đòi hỏi của thực tiễn, ngày 20/11/2015 Luật Kế toán Việt Nam đã được sửa đổi, bổ sung đã được Quốc hội thông qua. Những nội dung sửa
đổi, bổ sung trong Luật Kế toán ban hành năm 2015, liên quan đến trình bày và công bố TTTC có thể được khái quát lại như sau.
Sự thay đổi có tính đột phá nhất đó là bổ sung nguyên tắc kế toán “Giá trị hợp lý”. Với nguyên tắc này, việc hạch toán giá trị một số loại tài sản theo giá gốc có thể được thay bằng hạch toán theo giá trị hợp lý để đáp ứng với yêu cầu của thực tế hiện nay khi thị trường tài chính và thị trường vốn phát triển mạnh mẽ, phát sinh nhiều loại công cụ tài chính như cổ phiếu và trái phiếu được niêm yết trên thị trường chứng khoán.
Có thể bạn quan tâm!
- Các Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Mức Độ Công Bố Thông Tin Tài Chính Trên Báo Cáo Thường Niên Của Dnptcny Trên Ttck
- Các Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Mức Độ Công Bố Tttc Và Lý Thuyết Vận Dụng
- Giá Trị Vốn Hoá Trên Thị Trường Chứng Khoán 2015 -2021
- Thực Trạng Công Bố Thông Tin Tài Chính Trên Báo Cáo Thường Niên
- Mức Độ Công Bố Tttc Bắt Buộc Chi Tiết Của Từng Nội Dung Được Trình Bày Tại
- Thực Trạng Các Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Mức Độ Công Bố Thông Tin Tài Chính Của Các Doanh Nghiệp Phi Tài Chính Niêm Yết Trên Ttck Việt Nam
Xem toàn bộ 174 trang tài liệu này.
Về nội dung BCTC của đơn vị kế toán (Điều 29, Luật Kế toán 2015), BCTC của đơn vị kế toán dùng để tổng hợp và thuyết minh về tình hình tài chính và kết quả hoạt động của đơn vị kế toán. BCTC của đơn vị kế toán gồm (1) Báo cáo tình hình tài chính; (2) Báo cáo kết quả hoạt động; (3) Báo cáo lưu chuyển tiền tệ; (4) Thuyết minh BCTC; (5) Báo cáo khác theo quy định của pháp luật. Đối với các đơn vị kế toán mà pháp luật quy định phải kiểm toán thì khi công khai phải kèm theo báo cáo của công ty kiểm toán.
Về phương thức công bố BCTC được thực hiện theo một hoặc một số cách như phát hành ấn phẩm, thông báo bằng văn bản; niêm yết; đăng tải trên trang thông tin điện tử và các hình thức khác theo quy định của pháp luật. Sự đa dạng trong hình thức công bố BCTC đã tạo điều kiện thuận lợi cho DNPTCNY trong việc CBTT đến với người sử dụng và người sử dụng cũng dễ dàng tìm kiếm thông tin qua các kênh khác nhau.
Về thời gian, đơn vị kế toán phải lập BCTC năm vào cuối kỳ kế toán năm trong thời hạn 120 ngày kể từ ngày kết thúc kỳ kế toán năm; trường hợp pháp luật có quy định lập BCTC theo kỳ kế toán khác thì đơn vị kế toán phải lập theo kỳ kế toán đó. Việc lập BCTC phải căn cứ vào số liệu sau khi khóa sổ kế toán. Đơn vị kế toán cấp trên phải lập BCTC tổng hợp hoặc BCTC hợp nhất, dựa trên BCTC của các đơn vị kế toán trong cùng đơn vị kế toán cấp trên. BCTC phải được lập đúng nội dung, phương pháp và trình bày nhất quán giữa các kỳ kế toán; trường hợp BCTC trình bày khác nhau giữa các kỳ kế toán thì phải thuyết minh rõ lý do;
2.2.2.2. Chuẩn mực kế toán
Chuẩn mực kế toán là những qui định, nguyên tắc cơ bản, những hướng dẫn cần được tôn trọng khi thực hiện các công việc kế toán và trình bày các thông tin trên BCTC sao cho đảm bảo tính minh bạch của TTTC. Chuẩn mực kế toán có tính bắt buộc, hỗ trợ, hướng dẫn người làm kế toán thực hiện nghiệp vụ, phần hành kế toán do mình đảm nhận. Chuẩn mực kế toán là căn cứ để các bên liên quan phối hợp thực hiện trong quá trình xử lý các tranh chấp, kiện tụng về quá trình và kết quả của kế toán. Trong nhiều trường hợp nếu không có chuẩn mực kế toán, các DNPTCNY có thể lập BCTC theo nhiều phương pháp khác nhau để tạo lợi ích cho doanh nghiệp mình. Khi gặp những BCTC như vậy sẽ làm cho người sử dụng thông tin gặp phải những bất lợi khi đưa ra quyết định đầu tư. Chính vì vậy, việc sử dụng chuẩn mực kế toán áp dụng cho tất cả các doanh nghiệp là rất cần thiết, giúp ích cho người sử dụng BCTC dễ dàng so sánh thông tin giữa các doanh nghiệp để đưa ra phân tích, so sánh, đánh giá phục vụ cho việc ra quyết định.
Xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới đòi hỏi các quốc gia phải sử dụng ngôn ngữ kế toán chung nhằm nâng cao tính khách quan và tính có thể so sánh được của TTTC trên toàn cầu, giúp cho các DNPTCNY có thể tiếp cận với các nguồn vốn của các quốc gia khác nhau. Đó cũng là động lực để quá trình hội tụ kế toán quốc tế đang diễn một cách mạnh mẽ cùng với sự phát triển của hệ thống chuẩn mực BCTC quốc tế thay thế dần cho hệ thống chuẩn mực kế toán quốc tế. Có thể chia quá trình hội tụ kế toán Việt Nam với kế toán quốc tế thành 3 giai đoạn như sau:
Giai đoạn 1: từ năm 2001 đến năn 2021
Hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam gồm 26 chuẩn mực đã được Bộ Tài chính ban hành qua 5 đợt gồm 5 quyết định và 6 Thông tư. Đợt 1 ban hành ngày 31/12/2001 gồm 4 chuẩn mực; đợt 2 ban hành ngày 31/12/2002 gồm 6 chuẩn mực ; đợt 3 ban hành ngày 30/12/2003 gồm 6 chuẩn mực ; đợt 4 ban hành ngày 15/02/2005 gồm 6 chuẩn mực. Sau mỗi lần ban hành chuẩn mực BTC đều có thông tư hướng dẫn đi kèm để hướng dẫn cách hạch toán cụ thể. TTTC của DNPTCNY tập trung chủ yếu trên hệ thống BCTC bao gồm BCĐKT, BCKQHĐKD, BCLCTT và TMBCTC.
BCĐKT là một báo cáo tài chính tổng hợp, phản ánh tổng quát toàn bộ tài sản hiện có và nguồn hình thành các tài sản tại một thời điểm nhất định. Các chỉ tiêu trên BCĐKT được sắp xếp một cách hệ thống thành 2 phần là tài sản và nguồn vốn nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc nắm bắt thông tin và phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp. Thông qua BCĐKT có thể đánh giá khái quát tình hình sử dụng vốn và nguồn vốn của doanh nghiệp, khả năng thanh toán, cơ cấu tài chính và mức độ rủi ro tài chính, hiệu quả sử dụng vốn. CBTT về các chỉ tiêu trên BCĐKT cần tuân thủ VAS21, ngoài ra chỉ tiêu nào có chuẩn mực riêng điều chỉnh thì khi công bố còn phải tuân thủ các chuẩn mực riêng đó. Chẳng hạn, chỉ tiêu hàng tồn kho ngoài tuân thủ theo VAS21 thì còn phải tuân thủ theo yêu cầu CBTT theo VAS02 hoặc chỉ tiêu TSCĐ hữu hình ngoài tuân thủ theo VAS21 còn phải tuân thủ theo VAS03…Các chỉ tiêu cụ thể được yêu cầu CBTT theo các chuẩn mực tại phụ lục 15.
BCKQHĐKD cung cấp thông tin về doanh thu, chi phí và lợi nhuận trong một kỳ hoạt động của doanh nghiệp. Đối tượng sử dụng BCKQHĐKD có thể đánh giá về kết quả và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp sau mỗi chu kỳ kinh doanh, trên cơ sở đó dự báo về lợi nhuận cũng như dòng tiền tương lai của doanh nghiệp. BCKQHĐKD giúp các đối tượng quan tâm đánh giá được mức độ đóng góp cho xã hội của DNPTCNY bởi vì doanh nghiệp chỉ có thể tạo ra lợi nhuận khi sử dụng có hiệu quả các nguồn lực xã hội như lao động, nguyên liệu đầu vào của quá trình sản xuất.
CBTT về các chỉ tiêu trên BCKQHĐKD cần tuân thủ VAS21, ngoài ra nếu các chỉ tiêu nào có chuẩn mực riêng điều chỉnh thì khi công bố còn phải tuân thủ các chuẩn mực riêng đó. Chẳng hạn, chỉ tiêu doanh thu và thu nhập khác ngoài tuân thủ theo VAS21 thì còn phải tuân thủ theo VAS14; chỉ tiêu chi phí đi vay ngoài tuân thủ theo VAS21 còn phải tuân thủ theo VAS16; chỉ tiêu thuế TNDN ngoài tuân thủ theo VAS21 còn phải tuân thủ theo VAS17…Các chỉ tiêu cụ thể được yêu cầu CBTT theo các chuẩn mực được trình bày tại phụ lục 16.
BCLCTT phản ánh các dòng tiền thu, chi trong một kỳ hoạt động của DNPTCNY. BCLCTT giúp cho các đối tượng sử dụng biết được các nguồn tiền của doanh nghiệp tạo ra từ các hoạt động nào và luồng tiền chi ra của doanh nghiệp cho mục đích gì vì vậy
thông qua BCLCTT sẽ cho biết khả năng trang trải công nợ, chi trả cổ tức trong tương lai của DNPTCNY. BCLCTT cung cấp các TTTC bổ sung để đánh giá hiệu quả hoạt động trong kỳ hiện tại và dự báo triển vọng của doanh nghiệp trong tương lai mà đôi khi BCKQHĐKD không thể làm được.
TTTC trình bày trên BCLCTT phải được thể hiện theo 3 hoạt động là hoạt động kinh doanh; hoạt động đầu tư và hoạt động tài chính. Tuỳ theo đặc điểm hoạt động kinh doanh của từng DNPTCNY mà các luồng tiền có thể được trình bày theo cách thức phù hợp nhất.
Luồng tiền phát sinh từ hoạt động kinh doanh liên quan đến các hoạt động tạo ra doanh thu chủ yếu, nó cung cấp thông tin cơ bản để đánh giá khả năng tạo tiền của doanh nghiệp từ các hoạt động chính để trang trải các khoản nợ, duy trì các hoạt động trả cổ tức và tiến hành các hoạt động đầu tư mới mà không cần đến các nguồn tài chính bên ngoài. Luồng tiền phát sinh từ hoạt động đầu tư là luồng tiền có liên quan đến việc mua sắm, xây dựng, nhượng bán, thanh lý tài sản dài hạn và các khoản đầu tư khác không thuộc các khoản tương đương tiền. Luồng tiền phát sinh từ hoạt động tài chính là luồng tiền có liên quan đến việc thay đổi về quy mô và kết cấu của vốn chủ sở hữu và vốn vay của doanh nghiệp.
Các chỉ tiêu tài chính cụ thể được quy định công bố trên BCLCTT được điều chỉnh bởi VAS 24 và được trình bày tại phụ lục 17.
Thuyết minh BCTC là một phần không thể tách rời của BCTC, các nội dung trong TMBCTC giúp DNPTCNY mô tả chi tiết các dữ liệu, thông tin đã được trình bày trong BCĐKT, BCKQHĐKD, BCLCTT cũng như các thông tin cần thiết khác theo quy định của các chuẩn mực kế toán cụ thể. TMBCTC phải đưa ra các thông tin về cơ sở dùng để lập BCTC và các chính sách kế toán cụ thể được chọn và áp dụng đối với các giao dịch và sự kiện quan trọng; trình bày thông tin theo quy định của các chuẩn mực kế toán mà chưa được trình bày trong các BCTC khác; cung cấp thông tin khác cần thiết cho việc trình bày trung thực và hợp lý. Các TTTC được công bố trong TMBCTC phải được trình bày nhất quán giúp cho người sử dụng hiểu được BCTC của doanh nghiệp và có thể so sánh với BCTC của doanh nghiệp
khác. Các chỉ tiêu tài chính cụ thể được quy định công bố trên TMBCTC được điều chỉnh bởi các chuẩn mực có liên quan và trình bày tại phụ lục 18.
Giai đoạn 2: từ năm 2022 đến năm 2025
Đây là giai đoạn tự nguyện áp dụng IFRS để lập BCTC hợp nhất cho các đối tượng như công ty mẹ của tập đoàn kinh tế nhà nước có quy mô lớn hoặc có các khoản vay bởi các định chế tài chính quốc tế; công ty mẹ là công ty niêm yết; công ty đại chúng quy mô lớn là công ty mẹ chưa niêm yết; các công ty khác. Ngoài ra, các doanh nghiệp có 100% vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là công ty con của công ty mẹ ở nước ngoài cũng được tự nguyện áp dụng IFRS để lập BCTC riêng. Khi áp dụng IFRS các DNPTCNY phải đảm bảo đầy đủ thông tin và giải trình rõ ràng, minh bạch với cơ quan thuế, cơ quan quản lý, giám sát và chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc xác định nghĩa vụ với Ngân sách nhà nước.
Trong giai đoạn này, hệ thống chuẩn mực báo cáo tài chính Việt Nam VFRS cũng được nghiên cứu, xây dựng, ban hành mới các chuẩn mực trước đây chưa có và chỉnh sửa, bổ sung các chuẩn mực có sự khác biệt với IFRS để hoà hợp với chuẩn mực kế toán quốc tế.
Giai đoạn 3: sau năm 2025
Trên cơ sở đánh giá tình hình thực hiện áp dụng IFRS của giai đoạn tự nguyện áp dụng, Bộ Tài chính căn cứ nhu cầu, khả năng sẵn sàng của doanh nghiệp và tình hình thực tế, quy định phương án, thời điểm bắt buộc áp dụng IFRS để lập BCTC hợp nhất cho từng đối tượng như công ty mẹ của tập đoàn kinh tế Nhà nước; công ty mẹ là công ty niêm yết; công ty đại chúng quy mô lớn là công ty mẹ chưa niêm yết; công ty mẹ quy mô lớn khác. Các công ty mẹ khác không thuộc đối tượng bắt buộc áp dụng nêu trên nếu có nhu cầu và đủ nguồn lực thì có thể tự nguyện áp dụng IFRS để lập báo cáo tài chính hợp nhất. Đối với BCTC riêng, trên cơ sở đánh giá tình hình thực hiện áp dụng IFRS của giai đoạn 2, BTC căn cứ nhu cầu, khả năng sẵn sàng của các doanh nghiệp, pháp luật có liên quan và tình hình thực tế, quy định phương án, thời điểm áp dụng bắt buộc hoặc áp dụng tự nguyện IFRS để lập BCTC riêng cho từng nhóm đối tượng đảm bảo tính hiệu quả và khả thi.
Sau khi ban hành hệ thống chuẩn mực báo cáo tài chính Việt Nam VFRS và các văn bản hướng dẫn VFRS thay thế các văn bản hiện nay, BTC sẽ tổ chức triển khai áp dụng VFRS cho tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi lĩnh vực, mọi thành phần kinh tế hoạt động tại Việt Nam, trừ các đối tượng áp dụng IFRS hoặc chế độ kế toán áp dụng cho các doanh nghiệp siêu nhỏ.
2.2.2.3. Chế độ kế toán
Chế độ kế toán doanh nghiệp là một bộ phận cấu thành của hệ thống kế toán Việt Nam. Việc vận dụng đúng chế độ kế toán là một vấn đề rất quan trọng trong công tác kế toán của một doanh nghiệp nhằm đảm bảo chức năng ghi chép thông tin và kiểm soát của kế toán đối với doanh nghiệp và các cơ quan quản lý Nhà nước. Trong 30 năm qua, cùng với quá trình đổi mới khá toàn diện hệ thống pháp luật về kinh tế, hệ thống kế toán Việt Nam đã không ngừng được hoàn thiện, góp phần tích cực vào việc tăng cường công tác quản lý tài chính trong doanh nghiệp. CĐKT đầu tiên được ban hành theo quyết định số 1141TC/QĐ-CĐKT ngày 1/11/1995 đã mở đầu cho công cuộc đổi mới và hoàn thiện hệ thống kế toán Việt Nam, bước đầu tiếp cận với chuẩn mực và thông lệ kế toán quốc tế.
Ngày 20/3/2006, BTC ban hành quyết định số15/2006/QĐ-BTC đánh dấu bước tổng hợp và hoàn thiện chế độ kế toán doanh nghiệp Việt Nam. Nội dung CBTT trong quyết định này không thay đổi nhiều so với các quy định trước đây tuy nhiên về mặt chi tiết Quyết định 15/2006/QĐ-BTC đã tổng hợp những sửa đổi, bổ sung được Bộ Tài chính ban hành trong nhiều lần trước đó, phần nào đã kết hợp được những quy định của hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam được ban hành liên tục từ năm 2001 đến 2005. Quyết định 15/2006/QĐ-BTC đã giúp cho doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, thuộc mọi lĩnh vực hoạt động có thể đơn giản hoá công tác nghiên cứu và góp phần tuân thủ chế độ kế toán một cách chủ động hơn, tiến tới nâng cao tính minh bạch trong kế toán, tài chính doanh nghiệp, đảm bảo có thể so sánh được về tình hình tài chính, kết quả kinh doanh giữa các doanh nghiệp trong nước và tiến tới hội nhập kinh tế quốc tế.
Ngày 22/12/2014, Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 200/2014/TT – BTC, hướng dẫn chế độ kế toán doanh nghiệp thay thế cho Quyết định 15/2006/QĐ- BTC nhằm giải quyết các bất cập, vướng mắc còn tồn tại khi nền kinh tế có nhiều chuyển đổi mạnh mẽ, hoạt động của doanh nghiệp có nhiều thay đổi. Thông tư 200/2014/TT – BTC ra đời đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong quá trình tổ chức công tác kế toán, cho thấy BTC đã giao quyền tự chủ cho doanh nghiệp trong việc lựa chọn chế độ chứng từ kế toán, lựa chọn sổ kế toán sử dụng, lựa chọn phương pháp hạch toán phù hợp với doanh nghiệp của mình. Các quy định về trình bày và CBTT trên BCTC sát với quy định của chuẩn mực kế toán quốc tế cho thấy quyết tâm hội nhập kinh tế quốc trong lĩnh vực kế toán. TTTC bắt buộc được quy định theo chế độ kế toán được trình bày tại phụ lục 19.
2.2.3 . Những khác biệt cơ bản giữa chuẩn mực kế toán Việt Nam và chuẩn mực báo cáo báo tài chính quốc tế ảnh hưởng đến công bố thông tin tài chính
Chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) được xây dựng dựa trên quan điểm là tiếp cận hệ thống chuẩn mực kế toán quốc tế IAS/IFRS do Hội đồng chuẩn mực kế toán quốc tế (IASB) ban hành, theo nguyên tắc vận dụng có chọn lọc, phù hợp với đặc điểm nền kinh tế và trình độ quản lý của doanh nghiệp Việt Nam. Chuẩn mực kế toán được ban hành đã đánh dấu một cột mốc quan trọng trong sự nghiệp cải cách kế toán tại Việt Nam và góp phần nâng cao tính công khai, minh bạch thông tin về BCTC của doanh nghiệp. Tuy nhiên, 26 chuẩn mực kế toán Việt nam được ban hành từ năm 2000 đến năm 2005 cho đến nay chưa có sự sửa đổi, bổ sung trong khi hệ thống chuẩn mực kế toán quốc tế đã ban hành tổng cộng 41IAS và 16 IFRS, nhiều chuẩn mực được ban hành mới và nhiều chuẩn mực được cập nhật nhiều lần kể từ lần ban hành đầu tiên nên làm cho khoảng cách giữa hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam với hệ thống chuẩn mực kế toán quốc tế ngày càng tăng lên.
Theo kết quả nghiên cứu của Phạm Hoài Hương, Trần Thuỳ Uyên (2010)
11, trong 10 chuẩn mực được tác giả lựa chọn nghiên cứu để đánh giá mức độ hoà hợp của VAS với IAS/IFRS cho thấy tỷ lệ trung bình đạt được là 68%. Mức độ hoà hợp của các chuẩn mực về doanh thu và chi phí cao hơn các chuẩn mực về tài sản. Trong đó mức độ hoà hợp về đo lường là 81,2% nhưng các vấn đề về CBTT chỉ đạt