Vướng Mắc Trong Các Quy Định Về Chia Tài Sản Chung Của Vợ Chồng Trong Thời Kỳ Hôn Nhân

mình vào doanh nghiệp hay trách nhiệm pháp lý là chung cho cả vợ và chồng?

- Trong hoạt động của thị trường chứng khoán hiện nay, mọi cá nhân đều có quyền tự do đầu tư chứng khoán. Theo Luật chứng khoán thì trung tâm lưu ký chứng khoán và thành viên lưu ký chứng khoán có trách nhiệm bảo mật các thông tin liên quan đến sở hữu chứng khoán của khách hàng, từ chối việc điều tra, phong tỏa, cầm giữ, trích chuyển tài sản của khách hàng mà không có sự đồng ý của khách hàng. Nhưng nếu vợ chồng tham gia vào thị trường chứng khóan như mua, bán chứng khoán thì quy định trên khó khả thi, rất khó kiểm soát, giao dịch mà vợ chồng thực hiện là giao dịch chung hay là giao dịch của một bên vợ chồng. Việc xác định quyền và nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng trong trường hợp này là rất khó.

- Việc vợ, chồng gửi tiền, rút tiền tại ngân hàng chỉ do một bên vợ hoặc chồng thực hiện. Trong những trường hợp này, sổ tiết kiệm hay tiền rút từ ngân hàng của vợ, chồng là tài sản chung hay tài sản riêng?

Hoặc việc xác định tiền vay và tài sản hình thành từ tiền vay là tài sản thuộc sở hữu chung hay sở hữu riêng của vợ, chồng. Trên thực tế, việc vận dụng các quy định của pháp luật về vấn đề này rất khác nhau. Có những ngân hàng đồng ý cho vợ, chồng có thể thế chấp sổ tiết kiệm ở ngân hàng để vay vốn mà không cần sự thể hiện ý chí của người vợ, người chồng còn lại. Điều này dẫn tới tình trạng vợ chồng có thể tùy tiện thực hiện các giao dịch liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh và cơ chế quản lý cũng như xác định tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng là rất phức tạp.

- Hoặc trong quan hệ bảo hiểm: Luật kinh doanh bảo hiểm quy định một số hợp đồng bảo hiểm như hợp đồng bảo hiểm con người, tài sản… Nếu vợ chồng với tư cách là người mua bảo hiểm cho nhau hoặc được người khác mua bảo hiểm cho mình thì số tiền mà vợ, chồng được thụ hưởng được xác

định là tài sản chung của vợ chồng hay tài sản riêng của mỗi bên vợ, chồng? Hoặc vợ, chồng vừa là người được bảo hiểm vừa là người thụ hưởng trong hợp đồng bảo hiểm thì số tiền bảo hiểm sẽ được xác định là tài sản chung của vợ chồng hay tài sản riêng của một bên vợ, chồng? Những nội dung này chỉ có thể được giải quyết khi xác định đúng chủ thể tham gia với tư cách người mua bảo hiểm là ai, mục đích mua bảo hiểm cho ai và đặc biệt là phải xác định rõ phí đóng bảo hiểm được lấy từ đâu (tài sản chung hay tài sản riêng). Và như vậy, vấn đề lại quay ngược trở lại nội dung của Luật HN&GĐ, đó là vấn đề xác định rõ đâu là tài sản chung, đâu là tài sản riêng của vợ, chồng.

- Về việc đại diện cho nhau giữa vợ và chồng (Điều 24 Luật HN&GĐ):


Trong thực tế đối với những tài sản nào được xem là có giá trị lớn để buộc phải có sự đồng ý của cả vợ và chồng khi tham gia giao dịch thì chưa có quy định cụ thể, nhất là đối với những loại hợp đồng pháp luật quy định về hình thức có thể thoả thuận bằng miệng hoặc bằng văn bản, việc xác định sự đồng ý thoả thuận gặp nhiều khó khăn (chẳng hạn: vay tài sản trị giá 500 triệu đồng các bên có thể thoả thuận dưới hình thức miệng hoặc bằng văn bản, nhưng mua bán nhà có trị giá 450 triệu thì bắt buộc phải bằng văn bản có chứng thực của cơ quan có thẩm quyền, trước bạ, sang tên...).

Mặc dù Luật HN&GĐ không thể quy định cụ thể những vấn đề mang tính chuyên sâu của các ngành luật khác, nhưng việc đặt ra những nguyên tắc xử sự cũng như quy định rõ để xác định rõ nguồn gốc tài sản, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng trong quan hệ tài sản là điều cần phải có trong Luật HN&GĐ.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 133 trang tài liệu này.

3.1.2.3. Vướng mắc trong các quy định về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân

- Về nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân:

Cơ sở lý luận và thực tiễn điều chỉnh quan hệ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 - 11

Theo quy định tại Khoản 1 Điều 29 Luật HN&GĐ thì vợ, chồng có thể yêu cầu Toà án giải quyết việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân nếu không có hoặc không thoả thuận được. Tuy nhiên, Luật HN&GĐ và các văn bản hướng dẫn có liên quan chưa quy định cụ thể nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân khi việc chia tài sản chung đó thuộc thẩm quyền của Toà án. Do đó, trong thực tiễn áp dụng, Toà án sẽ gặp khó khăn khi vận dụng căn cứ pháp lý để giải quyết các tranh chấp phát sinh.

- Về xác định căn cứ chia là chính đáng:


Việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân có thể được thực hiện theo hai hình thức là theo thỏa thuận của vợ chồng hoặc do TA quyết định khi vợ chồng không thỏa thuận được và có yêu cầu TA giải quyết. Hình thức thứ nhất thường được nhiều người lựa chọn vì nó vừa tiết kiệm thời gian, chi phí, vừa tạo tâm lý thoải mái, không làm rạn nứt quan hệ vợ chồng. Tuy nhiên, Luận HN&GĐ hiện hành quy định việc chia tài sản chung của vợ chồng khi hôn nhân đang tồn tại chỉ được thực hiện ở một trong ba trường hợp: một trong hai bên vợ chồng muốn đầu tư kinh doanh riêng; thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng; hoặc có lý do chính đáng khác. Nhưng, khi vợ chồng có thể tự thỏa thuận việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân và lập thành văn bản có công chứng thì cơ quan công chứng không có nghĩa vụ kiểm tra xem việc chia này có xuất phát từ các căn cứ chia theo Luật định không, và pháp luật lại chưa có cơ chế để kiểm tra một cách chặt chẽ các căn cứ chia trong trường hợp này. Hơn nữa, những quy định của pháp luật hiện hành cũng không thể xác định rõ như thế nào là “có lý do chính đáng” để xem xét căn cứ chia tài sản chung của vợ chồng có đúng hay không.

- Về quyền khởi kiện của người thứ ba đối với việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân:

Theo quy định của Điều 29 Luật HN&GĐ năm 2000 thì việc yêu cầu TA chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân chỉ có thể là vợ, chồng hoặc cả hai vợ chồng, người thứ ba trong trường hợp này không có quyền khởi kiện. Việc pháp luật không thừa nhận quyền khởi kiện của người thứ ba trong trường hợp này về nguyên tắc là phù hợp vì thỏa thuận chia tài sản chung và yêu cầu TA chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân là quyền gắn liền với nhân thân của vợ chồng. Tuy nhiên, trên thực tế vẫn còn nhiều vướng mắc khi áp dụng quy định này. Theo luật hiện hành, khi vợ, chồng có nghĩa vụ tài sản riêng thì nghĩa vụ tài sản đó được thực hiện bằng tài sản riêng của họ, tài sản chung của vợ chồng không sử dụng cho việc thanh toán các khoản nợ này trừ khi vợ chồng có thoả thuận (Điều 33 Luật HN&GĐ năm 2000). Vấn đề đặt ra là, rất có thể vợ hoặc chồng có nghĩa vụ tài sản không có hoặc không đủ tài sản riêng để thanh toán các khoản nợ và vợ chồng đã không có thỏa thuận hoặc yêu cầu TA chia tài sản chung để trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản. Vì vậy, nếu không thừa nhận quyền yêu cầu của người có quyền (chủ nợ) về chia tài sản chung của vợ chồng để lấy phần tài sản của người có nghĩa vụ thanh toán nợ, thì quyền lợi của người thứ ba được đảm bảo như thế nào?

- Về trách nhiệm của vợ chồng đối với gia đình sau khi chia tài sản chung:

Theo quy định của pháp luật hiện hành, trong thời kỳ hôn nhận, nếu có lý do chính đáng vợ chồng có thể thỏa thuận chia tài sản chung bằng văn bản mà không quy định trách nhiệm của họ đối với gia đình sau khi chia tài sản chung. Giả sử, ngay sau khi kết hôn với lý do kinh doanh riêng, vợ chồng có thoả thuận toàn bộ tài sản chung được chia, tài sản của ai làm ra thuộc về người đó, thì khi đó lợi ích gia đình được đặt ở vị trí nào? Mặc dù có quy định về việc chịu trách nhiệm liên đới trong giao dịch vì nhu cầu thiết yếu của gia

đình nên việc chia tài sản chung này không phải là phủ nhận hoàn toàn những lợi ích chung của gia đình. Nhưng nếu thoả thuận chia toàn bộ tài sản chung được thực hiện thì quan hệ hôn nhân chỉ còn tồn tại về mặt nhân thân, còn quan hệ tài sản giữa vợ chồng đã được dân sự hóa, bản chất của hôn nhân XHCN vì thế không được đảm bảo thực hiện.

- Về thời điểm có hiệu lực của văn bản thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân

Theo tinh thần của Điều 6, Nghị định số 70/2001/NĐ-CP, trong trường hợp vợ chồng thỏa thuận việc chia tài sản chung và lập thành biên bản, họ có thể không cần công chứng, chứng thực việc chia tài sản mà lập biên bản thỏa thuận việc chia tài sản và có người làm chứng. Theo quy định tại Điều 7 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP thì thời điểm có hiệu lực của việc chia tài sản chung của vợ chồng trong trường hợp văn bản thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng không xác định rõ thời điểm có hiệu lực của việc chia tài sản thì hiệu lực được tính từ ngày, tháng lập văn bản. Quy định này đã tạo ra kẽ hở để các bên vợ chồng hợp lý hóa việc trốn tránh nghĩa vụ tài sản trong trường hợp vợ chồng đầu tư kinh doanh nhưng kinh doanh không hiệu quả, gây thiệt hại đến quyền và lợi ích của người thứ ba.

- Về hậu quả pháp lý của việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân:

Khoản 2 Điều 8 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP quy định: “Thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của mỗi bên sau khi chia tài sản chung là tài sản riêng của vợ, chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thoả thuận khác”. Quy định này hiện nay có hai quan điểm áp dụng khác nhau. Quan điểm thứ nhất cho rằng quy định này không phù hợp với căn cứ xác lập tài sản chung của vợ chồng tại Điều 27 Luật HN&GĐ, không phù hợp với mục đích của việc chia tài sản chung.

Quan điểm thứ hai cho rằng sau khi đã chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân (dù chia một phần hay toàn bộ tài sản chung của vợ chồng ) thì chế độ tài sản chung của vợ chồng phải được coi là chấm dứt. “Thời kỳ hôn nhân” trong trường hợp này không được coi là căn cứ xác lập tài sản chung của vợ chồng, vì đây là trường hợp đặc biệt ngoại lệ.

- Về việc hủy bỏ thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân

Luật HN&GĐ năm 2000 và Nghị định số 70/2001/NĐ-CP quy định các trường hợp chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân mà không có lý do chính đáng thì bị Toà án tuyên bố là vô hiệu. Nhưng các văn bản này lại không quy định ai là người có thể yêu cầu Toà án hủy bỏ thoả thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân trong trường hợp thoả thuận này vi phạm các điều kiện được quy định tại Điều 29 Luật HN&GĐ hoặc gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống gia đình, cũng chưa quy định hậu quả pháp lý của việc TA tuyên bố vô hiệu đối với thoả thuận chia tài sản chung.

- Về khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng sau khi chia:


Theo Điều 9 và Điều 10 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP trong trường hợp vợ chồng có thoả thuận bằng văn bản về khôi phục chế độ tài sản chung, thì kể từ ngày văn bản thoả thuận khôi phục chế độ tài sản chung có hiệu lực, việc xác định phần tài sản thuộc sở hữu riêng của mỗi bên, phần tài sản thuộc sở hữu chung căn cứ vào sự thoả thuận của vợ chồng. Quy định này đã trao cho vợ chồng một quyền hạn quá rộng, mà không có bất kỳ một ràng buộc nào về mặt pháp lý để đảm bảo quyền và lợi ích của người thứ ba. Ví dụ như trong trường hợp vợ hoặc chồng có nghĩa vụ về tài sản với người thứ ba, nhưng để trốn tránh nghĩa vụ, vợ chồng có văn bản thỏa thuận về khôi phục chế độ tài sản chung sau khi nghĩa vụ về tài sản với người thứ ba phát sinh nhưng họ lại ghi ngày thỏa thuận trước khi nghĩa vụ phát sinh, bởi pháp luật

quy định văn bản thỏa thuận của hai vợ chồng “có thể có người làm chứng hoặc được công chứng, chứng thực theo yêu cầu của vợ chồng…”

Đồng thời, việc không quy định cụ thể chế định khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng cũng như quy định quyền hạn quá rộng của vợ chồng trong việc thỏa thuận khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng đã khiến cho chế định này mới chỉ là hình thức mà chưa thể áp dụng cụ thể trên thực tế.

Hơn nữa, quy định như pháp luật hiện hành khi trao toàn quyền cho vợ chồng trong việc khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng đã làm loại trừ cả những trường hợp ngoại lệ, bắt buộc mà luật quy định đối với những tài sản riêng, tài sản chung của vợ chồng, cũng như không xác định rõ nguồn gốc của tài sản được khôi phục để xác định là tài sản chung của vợ chồng. Vì vậy, chế độ tài sản pháp định không được đảm bảo đúng bản chất pháp lý mà nhà làm luật đề ra. Theo như quy định này thì chỉ có những tài sản được tặng cho chung, thừa kế chung, tài sản vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung và những hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản chung mới thuộc khối tài sản chung, còn lại những tài sản là thu nhập hợp pháp của vợ chồng như lương, tài sản mà một người tạo ra trong thời kì hôn nhân thuộc khối tài sản riêng của vợ, chồng…và nếu như vợ chồng quyết định chia tất cả tài sản chung thì khối tài sản chung sẽ gần như không còn có thể tồn tại nếu không được thừa kế chung, tặng cho chung hay vợ chồng không khôi phục lại chế độ tài sản chung. Quy định này đã chấp nhận chế độ biệt sản của vợ chồng, là trái luật và phải bị vô hiệu hóa.

3.1.2.4. Các khó khăn, vướng mắc khác


- Về xác định tài sản của vợ chồng đối với tài sản là quyền sở hữu trí tuệ. Đây là một trong những vấn đề tương đối mới trong hệ thống pháp luật Việt

Nam. Do đó, nó cũng không tránh khỏi những khó khăn trong quá trình áp dung, đặc biệt là khi nó liên quan đến quan hệ tài sản của vợ chồng.

Quyền sở hữu trí tuệ là một loại tài sản (là quyền tài sản). Tuy nhiên, việc xác định tài sản này là tài sản chung hay tài sản riêng của vợ, chồng là một vấn đề chưa được quy định trong pháp luật hiện hành. Vì vậy, việc xác định quyền tài sản đối với quyền sở hữu trí tuệ của vợ, chồng là tài sản chung hay tài sản riêng của vợ, chồng? cũng như lợi ích vật chất thu được từ việc khai thác, sử dụng quyền sở hữu trí tuệ là tài sản chung hay tài sản riêng của vợ, chồng? là một vấn đề cần phải giải quyết.

- Quyền và nghĩa vụ tài sản của vợ chồng trong quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng:

Các trường hợp tài sản có được là tài sản do được bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong các trường hợp tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của vợ hoặc chồng hoặc cả hai bị xâm phạm có phải là tài sản chung hợp nhất của vợ chồng không?

Hoặc trong trường hợp vợ hoặc chồng có nghĩa vụ tài sản trong quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì nghĩa vụ tài sản này là nghĩa vụ tài sản riêng của người vợ, chồng hay nghĩa vụ tài sản chung của vợ chồng?

- Về một người tồn tại nhiều quan hệ hôn nhân hợp pháp. Tài sản chung xác định thế nào Luật chưa có qui định cụ thể.

- Giấy chứng nhận Quyền Sở hữu nhà và Quyền Sử dụng đất ở chỉ có vợ hoặc chồng đứng tên chủ sở hữu và sử dụng:

Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2000, tại khoản 3 Điều 27 quy định: Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà

Xem tất cả 133 trang.

Ngày đăng: 25/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí