Chênh Lệch Giữa Lạm Phát Trong Nước Và Nước Ngoài

2.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái

Trong nền kinh tế thị trường, TGHĐ bị chi phối bởi nhiều yếu tố khác nhau nhưng tựu chung lại có một số nhân tố chủ yếu tác động tới TGHĐ đó là:

2.1.3.1. Cung cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối

Tỷ giá hối đoái luôn thay đổi dưới tác động của các yếu tố ảnh hưởng đến cung cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối.

Trong hình 2.1, E là tỷ giá hối đoái (nội tệ/ ngoại tệ). D là đường cầu ngoại tệ (khi các nhà đầu tư /nhà nhập khẩu muốn mua hàng hoá ở nước ngoài, từ nhu cầu du học hay chữa bệnh ở nước ngoài...). Đường cầu ngoại tệ chạy dốc xuống để biểu diễn mối quan hệ nghịch biến giữa TGHĐ và cầu ngoại tệ. Cầu ngoại tệ chịu ảnh hưởng của các yếu tố như: Thu nhập của người dân, giá cả hàng hoá, sở thích của người dân và những can thiệp của chính phủ vào thị trường ngoại hối (TTNH).


E

S

E1

A

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 212 trang tài liệu này.

D

Q1

Cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế - 5

Q

Hình 2.1. Mô hình thị trường ngoại hối

S là đường cung ngoại tệ, nguồn cung này xuất phát từ như cầu của người nước ngoài muốn mua hàng hoá để đầu tư vào trong nước, người trong nước có thu nhập do làm việc cho các doanh nghiệp nước ngoài, lượng kiều hối đưa về... Cung ngoại tệ chịu ảnh hưởng của thu nhập của người nước ngoài, giá cả hàng hoá, sở thích của người tiêu dùng ngoại quốc và sự can thiệp của Ngân hàng Trung ương vào TTNH.

A là điểm cân bằng cung-cầu ngoại tệ và xác lập mức TGHĐ trên TTNH. Trạng thái cân bằng luôn thay đổi khi có yếu tố tác động đến cung-cầu ngoại tệ. Một quốc gia áp dụng cơ chế TGHĐ cố định khi muốn ổn định TGHĐ thì Ngân hàng Trung ương sẽ phải sử dụng các công cụ để can thiệp vào TTNH.

Ngoài các yếu tố tác động trực tiếp lên cung - cầu ngoại tệ thì các yếu tố gián tiếp (chi tiêu chính phủ, sản lượng, năng suất lao động,…) cũng ảnh hưởng tới TGHĐ. Cung - cầu ngoại tệ là hai yếu tố vô cùng nhạy cảm, quyết định trực tiếp TGHĐ.

NHTW sẽ sử dụng các công cụ để can thiệp vào TTNH nhằm đối phó kịp thời với những rủi ro tiềm ẩn xảy ra do biến động của TGHĐ.

2.1.3.2. Chênh lệch lãi suất trong nước và nước ngoài

Chênh lệch lãi suất trong nước và nước ngoài là yếu tố tác động đến TGHĐ trong ngắn hạn. Nếu nền kinh tế không có lạm phát, lãi suất huy động vốn bằng nội tệ cao hơn lãi suất huy động vốn bằng ngoại tệ, sẽ làm tăng cầu về nội tệ. Khi ấy, thay vì gửi vào NH bằng ngoại tệ người ta sẽ gửi bằng nội tệ để tăng thu nhập từ tiền gửi. Nếu nền kinh tế có lạm phát cao thì việc chuyển sang nắm giữ nội tệ sẽ có rủi ro rất lớn. Do đó, khi xác định mức lãi suất tiền gửi tiền nội tệ, cần kết hợp với chính sách lãi suất tiền gửi ngoại tệ và TGHĐ giữa nội tệ với ngoại tệ.

Lãi suất được xem là công cụ của NHTW trong việc điều chỉnh TGHĐ trong ngắn hạn. Theo lý thuyết ngang giá lãi suất, đồng tiền của một quốc gia nào có lãi suất thấp hơn thì nhất định sẽ bù kỳ hạn cho hợp đồng kỳ hạn đối với đồng tiền của một quốc gia khác có lãi suất cao hơn. Nói đơn giản là, sự cân bằng TTNH đòi hỏi sự ngang bằng về tiền lãi, lợi tức của hai loại tiền gửi là tương đương nhau khi cùng quy về một đồng tiền. Khi tất cả các lãi suất dự kiến bằng nhau tức có sự xuất hiện ngang giá lãi suất thì TTNH sẽ cân bằng do không thể có dư cung hoặc dư cầu.

2.3.1.3. Chênh lệch giữa lạm phát trong nước và nước ngoài

Chênh lệch giữa lạm phát trong nước và nước ngoài là yếu tố ảnh hưởng đến TGHĐ trong dài hạn. Nếu tỷ lệ lạm phát trong nước cao hơn so với lạm phát ở nước ngoài sẽ làm cho giá hàng hoá trong nước đắt hơn, người tiêu dùng có xu hướng dùng hàng ngoại thay thế hàng nội, từ đó làm cho nhập khẩu tăng, nên cầu ngoại tệ tăng, đẩy TGHĐ tăng, đồng tiền của nước có tỷ lệ lạm phát cao sẽ bị giảm giá để bù lại phân chênh lệch lạm phát. Tác động này được giải thích bằng lý thuyết ngang giá sức mua (Purchase Power Parity- PPP). TGHĐ giữa hai đồng tiền lúc này phải biến động để tương ứng với mức lạm phát giữa chúng.

2.3.1.4. Đầu tư nước ngoài

Tác động của đầu tư nước ngoài lên TGHĐ được xem xét ở hai góc độ: Thứ nhất, TGHĐ chịu ảnh hưởng của quy mô vốn đầu tư nước ngoài, gồm đầu tư trực tiếp (FDI), đầu tư gián tiếp (FPI) và các khoản vay quốc tế, chúng tạo nên nguồn cung ngoại tệ cho nền kinh tế. Trên TTNH, cung ngoại tệ sẽ tăng khi nhận thêm những khoản đầu tư nước ngoài, còn cầu ngoại tệ tăng khi các nhà đầu tư trong nước tiến hành đầu tư ra nước ngoài. Nếu các yếu tố khác không đổi, giá trị của đồng nội tệ sẽ tăng nếu đầu tư ra nước ngoài lớn hơn so với nhận đầu tư nước ngoài và ngược lại. Thứ hai, TGHĐ chịu tác động của tỷ suất sinh lợi vốn đầu tư và mức độ rủi ro của nước nhận vốn đầu tư. Tỷ suất sinh lợi có mối quan hệ đồng biến với cung ngoại

tệ và có nghịch biến với cầu ngoại tệ. Tỷ suất sinh lời tăng sẽ làm cho nội tệ lên giá vì thu hút được các nhà đầu nước ngoài, cung ngoại tệ tăng; còn cầu ngoại tệ giảm vì các nhà đầu tư trong nước có ít nhu cầu ngoại tệ để đầu tư ra nước ngoài. Ngược lại, đồng nội tệ sẽ xuống giá khi tỷ suất sinh lời thấp hoặc mức rủi ro tại quốc gia đó cao.

2.3.1.5. Hiện tượng đô la hoá

Đô la hoá là hiện tượng dân cư sử dụng rộng rãi đồng USD cùng với đồng nội tệ hoặc thay thế đồng nội tệ. Theo tiêu chí của IMF, một nền kinh tế được coi là có tình trạng đô la hoá cao khi tỷ trọng tiền gửi bằng ngoại tệ chiếm từ 30% trở nên trong tổng khối lượng tiền rộng (M2). Đôla hoá là hiện tượng phổ biến, đặc biệt ở các nước đang và chậm phát triển hoặc đang chuyển đổi kinh tế. Đôla hoá thường gặp khi một nền kinh tế có lạm phát cao, sức mua của đồng nội tệ giảm sút nên người dân phải tìm các công cụ dự trữ khác, trước hết là các đồng ngoại tệ có uy tín. Dần dần ngoại tệ sẽ cạnh tranh với nội tệ trong chức năng làm phương tiện thanh toán hay chức năng làm thước đo giá trị. Hiện tượng đôla hoá sẽ gây áp lực cho NHTW khi muốn can thiệp vào thị trường ngoại hối (TTNH) để thay đổi trạng thái cung - cầu ngoại tệ nếu có những cú sốc do có hiện tượng găm giữ ngoại tệ.

2.3.1.6. Yếu tố tâm lý

Trên thị trường ngoại hối, khi các chủ thể (người dân, nhà đầu cơ, ngân hàng,...) tham gia mua bán sẽ tạo nên cung - cầu ngoại tệ. Một trong những yếu tố tác động đến cung - cầu ngoại tệ là các tin đồn hoặc kỳ vọng trong tương lai. Nếu mọi người kỳ vọng TGHĐ sẽ tăng trong tương lai thì họ sẽ mua ngoại tệ dẫn tới tỷ giá tăng trong hiện tại và ngược lại. Trong thực tế rất khó có những dự báo đúng về xu hướng vận động của TGHĐ.

Tóm lại, với sự hội tụ các nhân tố khác nhau như trên thì TGHĐ là một chỉ số kinh tế tổng hợp. Nó vừa là tấm gương phản chiếu các mặt quan hệ đối nội và đối ngoại là sự phản ánh tương quan sức mua giữa đồng nội tệ với một loại ngoại tệ nhất định và phản ánh quan hệ cung cầu giữa chúng trên thị trường ngoại hối.

2.1.4. Ảnh hưởng của biến động tỷ giá hối đoái đến nền kinh tế

Sự biến động của tỷ giá hối đoái có ảnh hưởng như thế nào đến nền kinh tế trong tiến trình hội nhập quốc tế là vấn đề thường xuyên được đặt ra. Hơn nữa, nó tác động như thế nào đến việc duy trì ổn định kinh tế vĩ mô còn là điều quan trọng nhất vì nếu không đảm bảo được ổn định kinh tế vĩ mô thì tiến trình hội nhập quốc tế chắc chắn sẽ gặp nhiều khó khăn, thậm chí còn bị trả giá đắt vì khi ấy rất dễ đưa đến những thua thiệt với đối tác bên ngoài, thậm chí dẫn đến tình trạng nền kinh tế bị phụ thuộc.

2.1.4.1. Biến động tỷ giá hối đoái tác động đến xuất nhập khẩu và sản lượng

Theo Sameti và các cộng sự (2012), bất ổn kinh tế vĩ mô được đánh giá bởi các biến động của một tổ hợp các biến số kinh tế vĩ mô như tăng trưởng, lạm phát, thâm hụt cán cân vãng lai, dự trữ ngoại hối và thâm hụt ngân sách. Biến động của TGHĐ biểu hiện cho sự không chắc chắn trong các giao dịch quốc tế về hàng hóa và tài sản tài chính từ đó ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế. Sự bất ổn kinh tế vĩ mô được thể hiện thông qua sự suy giảm sản lượng của nền kinh tế.

Sự biến động của TGHĐ ảnh hưởng tới sản lượng của nền kinh tế thông qua các biến số của tổng cầu là cán cân thương mại (xuất khẩu trừ nhập khẩu) và đầu tư. Khi TGHĐ hữu hiệu tăng, xuất khẩu tăng, nhập khẩu giảm, làm cho tổng cầu tăng lên. Tuy nhiên, không phải trong trường hợp nào, biến động của TGHĐ cũng ảnh hưởng đến hoạt động của nền kinh tế như vậy. Mức độ thúc đẩy sản xuất trong nước còn phụ thuộc vào khả năng cạnh tranh của hàng hóa trong nước với hàng hóa nước ngoài, vị trí của nền kinh tế so với mức sản lượng tiềm năng, mức độ linh hoạt của giá cả trong nền kinh tế… Mối quan hệ giữa TGHĐ và cán cân thương mại được lý giải như sau:

Lý thuyết co giãn được xây dựng bởi Bickerdike (1920), được tiếp tục phát triển bới Robinson (1947), Metzler (1948) và sau này được chuyển thành điều kiện Marshall – Lerner bởi Alfred Marshall và Abba Lerner. Theo đó, việc giảm giá nội tệ sẽ tạo ra hai hiệu ứng giá cả và khối lượng lên hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu với hiệu ứng ròng phụ thuộc vào tính trội của hiệu ứng nào lớn hơn. Để việc phá giá tạo ra lợi thế thương mại, thúc đẩy xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu, cải thiện cán cân thương mại và từ đó khuyến khích hoạt động sản xuất trong nước, gia tăng sản lượng của nền kinh tế thì độ co giãn của xuất khẩu và độ co giãn của nhập khẩu với tỷ giá phải lớn hơn 1.

Lý thuyết chi tiêu lập luận rằng việc phá giá nội tệ có tác dụng làm tăng tổng cầu nhưng mức độ tồn tại và ảnh hưởng phụ thuộc vào tổng cung. Nếu nền kinh tế chưa đạt mức sản lượng tiềm năng thì nền kinh tế có đủ các nguồn lực dự trữ để sản xuất ra thêm hàng hóa và đáp ứng được sự gia tăng của tổng cầu. Ngược lại, nếu nền kinh tế đã đạt mức sản lượng tiềm năng hoặc quá mức sản lượng tiền năng thì nhìn chung nền kinh tế không thể tiếp tục sản xuất thêm hàng hóa. Tổng cầu tăng lên sẽ nhanh chóng đẩy mức giá cả và tiền lương tăng và làm giảm đi sức cạnh tranh quốc tế của hàng hóa trong nước có được nhờ phá giá trước đó. Hơn nữa, muốn khắc phục được thâm hụt cán cân thương mại và gia tăng sản xuất trong nước thì chính các tác nhân trong nước phải cắt giảm chi tiêu và hoặc thay đổi thói quen chi tiêu (chuyển sang tiêu dùng hàng hóa trong nước) với điều kiện tốc độ giảm của tổng chi tiêu nhanh hơn tổng thu nhập của nền kinh tế.

Cuối cùng, theo trường phái tiền tệ, cán cân thanh toán là một hiện tượng tiền tệ, sự mất cân bằng trong cán cân thanh toán thể hiện sự mất cân bằng trên thị trường tiền tệ. Theo cách tiếp cận này, giả sử một quốc gia tiến hành phá giá tiền tệ, sẽ làm tăng mức giá nội địa, các chủ thể trong nền kinh tế sẽ cắt giảm chi tiêu, cán cân thương mại được cải thiện. Tuy nhiên, đây chỉ là điểm cân bằng trong ngắn hạn. Do lượng cung tiền trong nước cũng sẽ phải tăng lên để thỏa mãn nhu cầu tiền cao hơn do giá tăng nên nền kinh tế sẽ quay trở lại trạng thái cân bằng tuy nhiên vẫn cao hơn mức giá ban đầu. Như vậy, ảnh hưởng của phá giá đối với cán cân thương mại và sản lượng của nền kinh tế chỉ là tạm thời.

Tóm lại, mỗi cách tiếp cận dựa trên những giả định khác nhau và đưa ra những kết luận không giống nhau, nhưng đều khẳng định là khi có biến động TGHĐ sẽ có tác động tới sản lượng của nền kinh tế thông qua tổng cầu hoặc tổng cung.

2.1.4.2. Biến động tỷ giá hối đoái tác động tới lạm phát

Tỷ giá hối đoái tác động đến lạm phát theo 2 kênh: Thứ nhất, theo lý thuyết ngang giá sức mua thì sự thay đổi của tỷ giá là sự phán ánh tương quan giữa lạm phát trong nước và nước ngoài. Tuy nhiên, tỷ giá hối đoái cũng có tác động tới lạm phát thông qua cơ chế trung chuyển tác động của TGHĐ tới lạm phát (Exchange rate pass- through – ETF). Tác động từ sự thay đổi của TGHĐ tới mức giá cả trong nước được truyền dẫn thông qua ba kênh bao gồm kênh truyền dẫn trực tiếp, kênh truyền dẫn gián tiếp và kênh truyền dẫn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Thứ hai, theo kênh truyền dẫn trực tiếp, khi tỷ giá tăng, giá hàng hóa nhập khẩu phục vụ cho mục đích tiêu dùng quy đổi sang nội tệ tăng lên sẽ dẫn đến mặt bằng giá cả trong nước tăng lên. Ngoài ra, giá hàng hóa nhập khẩu là nguyên vật liệu đầu vào cho các ngành sản xuất trong nước cũng làm cho giá thành hàng hóa tăng lên, làm mức giá chung trong nền kinh tế tăng. Lập luận này được thể hiện thông qua qua công thức:

( )(2-3)

Trong đó: α là tỷ trọng hàng sản xuất trong nước, PD là mức giá hàng hóa sản xuất trong nước tính bằng nội tệ,là mức giá cả hàng hóa nhập khẩu tính bằng ngoại tệ.

Trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, TGHĐ tăng càng mạnh và tỷ trọng hàng hóa nhập khẩu càng lớn thì tỷ lệ lạm phát trong nước càng cao. Cụ thể:

Theo kênh truyền dẫn gián tiếp, khi TGHĐ tăng, giá hàng hóa nhập khẩu tính bằng nội tệ tăng, hàng hóa nội địa sẽ rẻ hơn tương đối so với hàng nhập khẩu và dẫn tới hành vi của người tiêu dùng và doanh nghiệp chuyển sang dùng hàng nội địa. Cầu hàng hóa nội địa tăng lên dẫn tới mặt bằng giá hàng nội địa tăng theo. Ngoài ra, tăng cầu liên tục đối với hàng xuất khẩu từ bên ngoài có thể dẫn tới tăng sản lượng của nền kinh tế trong dài hạn và gây ra áp lực lạm phát trong nước.

Theo kênh truyền dẫn gián tiếp (thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài), khi TGHĐ tăng và xu hướng mở cửa của nền kinh tế tăng, làm tăng mức độ thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Khi đầu tư nước ngoài vào nền kinh tế tăng, làm tăng cầu lao động trong nước và dẫn tới tăng mức lương. Ngoài ra, mức lương của các công ty nước ngoài cao hơn có thể đẩy mặt bằng lương trong nước, tăng chi phí sản xuất và làm tăng giá hàng hóa sản xuất ra và tăng giá tiêu dùng. Mặt khác, khi dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ làm tăng tổng cầu của nền kinh tế, đẩy mặt bằng giá cả trong nước tăng lên.

2.1.4.3. Biến động tỷ giá hối đoái tác động tới đầu tư nước ngoài

Trong các yếu tố tác động đến đầu tư nước ngoài thì TGHĐ là một nhân tố có ảnh hưởng quan trọng. Cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái định giá thấp đồng nội tệ sẽ thu hút được nhiều đầu tư nước ngoài khi mà một đồng ngoại tệ đổi được nhiều nội tệ hơn. Ngoài ra, một cơ chế điều hành duy trì sự ổn định của tỷ giá thay vì chịu áp lực phá giá nội tệ sẽ tạo điều kiện cho các nhà đầu tư an tâm đầu tư dài hạn vào nền kinh tế. Ngược lại, đầu tư nước ngoài sẽ bị hạn chế với chính sách định giá cao nội tệ. Hơn nữa, khi đồng nội tệ được định giá cao thì sẽ tiềm ần khả năng phá giá nội tệ. Trong trường hợp này, các nhà đầu tư sẽ quan ngại và hạn chế đầu tư vào các quốc gia như vậy.

Khi thị trường tài chính quốc gia hội nhập ngày càng sâu vào thị trường quốc tế thì TGHĐ là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến đầu tư nước ngoài (cả đầu tư trực tiếp và gián tiếp). Việc điều chỉnh TGHĐ linh hoạt theo hưởng thị trường sẽ giúp thu hút được đầu tư nước ngoài nhiều hơn nhằm đáp ứng mục tiêu huy động vốn đầu tư cho phát triển kinh tế.

2.1.4.4. Biến động tỷ giá hối đoái tác động đến hiện tượng đô la hoá

Trong bối cảnh kinh tế vĩ mô biến động theo chiều hướng xấu, thị trường ngoại tệ mất cân bằng cung cầu, sự biến động trong TGHĐ có tác động tới kỳ vọng về TGHĐ trong tương lai và điều chỉnh hành vi nắm giữ nội tệ của công chúng, họ chuyển sang nắm giữ tài sản tài chính bằng ngoại tệ, bất động sản hoặc vàng. Như vậy, để đảm bảo mục tiêu ổn định giá cả, kích thích tăng trưởng kinh tế, hạn chế tình trạng đô la hoá cần phải lựa chọn thời điểm phá giá hoặc nâng giá nội tệ phù hợp với điều kiện hiện tại của quốc gia.

2.1.4.5. Biến động tỷ giá hối đoái tác động đến nợ nước ngoài

Nợ nước ngoài của một quốc gia bao gồm toàn bộ khoản tiền gốc và lãi phải trả cho nước ngoài khi đến hạn. Giá trị nợ nước ngoài tính bằng ngoại tệ là không đổi, nhưng giá trị này nếu đối ra nội tệ sẽ thay đổi phụ thuộc vào sự biến động của TGHĐ. Nếu TGHĐ tăng thì giá trị phải trả bằng sẽ nội tệ sẽ tăng. Như vậy, các chủ thể trong nền kinh tế đang ở trạng thái nợ tài sản ngoại tệ ròng, đặc biệt với các quốc gia có mức nợ nước ngoài quá cao trong khi các khoản đầu tư kém hiệu quả, sẽ phải đối mặt với

gánh nặng nợ gia tăng mạnh, thu hẹp khả năng tiêu dùng và đầu tư, dẫn tới giảm tổng cầu của nền kinh tế. Thậm chí, Chính phủ và các doanh nghiệp không thể tiếp cận được các khoản nợ mới để trả các khoản nợ cũ khi đến hạn và dễ dẫn đến tình trạng vỡ nợ. Đây là thử thách đối với cả các quốc gia phát triển.

Tóm lại, mức độ và thời gian ảnh hưởng của biến động TGHĐ tới các hoạt động của nền kinh tế kể trên là không giống nhau giữa các quốc gia, và thay đổi qua từng thời kỳ. Những tác động này phụ thuộc vào nhiều yếu tố như sức khỏe của nền kinh tế, mức độ mở cửa của nền kinh tế, chính sách tỷ giá, khả năng can thiệp của NHTW, mức độ nhạy cảm của lạm phát với sự thay đổi của TGHĐ, khả năng cạnh tranh của hàng hóa trong nước với hàng hóa thế giới… Hơn nữa, tác động của TGHĐ với các nhân tố này là tác động qua lại, đòi hỏi việc đánh giá ảnh hưởng của biến động tỷ giá cần phải nhìn nhận ở mức độ toàn diện. Ví dụ, khi nền kinh tế đang trong giai đoạn bất ổn, lạm phát ở mức cao, thì việc tăng TGHĐ không giúp được nền kinh tế gia tăng sản lượng mà có thể khiến lạm phát tăng mạnh hơn, chèn lấn hiệu ứng tăng khả năng cạnh tranh của hàng hóa trong nước với hàng hóa thế giới. Ngoài ra, phá giá tiền tệ có thể dẫn tới niềm tin của công chúng vào đồng nội tệ giảm thấp hơn, các nhà đầu tư nước ngoài lo ngại khủng hoảng tiền tệ xảy ra sẽ rút vốn và trong trường hợp dự trữ ngoại hối mỏng thì một cuộc khủng hoảng tiền tệ có thể xảy ra thực sự. Hoặc trường hợp mức nợ nước ngoài là tương đối thấp thì việc tăng TGHĐ để khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu có thể giúp nền kinh tế tăng trưởng mạnh, thu được ngoại tệ để trả nợ nước ngoài. Tuy nhiên, nếu như mức giá cả trong nước là tương đối linh hoạt và hàng nhập khẩu khó thay thế trong tiêu dùng và sản xuất thì những lợi thế từ việc tăng TGHĐ đem lại có thể nhanh chóng bị xóa nhòa.

2.2. Cơ sở lý luận về cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái

2.2.1. Cơ chế tỷ giá hối đoái

2.2.1.1. Khái niệm cơ chế tỷ giá hối đoái

Cơ chế tỷ giá hối đoái (Exchange Rate Regime) là cách thức hoặc các nguyên tắc theo đó nền kinh tế quản lý tỷ giá hối đoái đồng tiền của mình, cụ thể là mức độ mà nó can thiệp trên thị trường ngoại hối. Cơ chế TGHĐ bao gồm từ thả nổi đến neo cố định (US Treasury Department, 12/2020) [200].

Cơ chế tỷ giá hối đoái (Exchange Rate Mechanism) hay còn gọi là chế độ tỷ giá hối đoái là một phạm trù biểu hiện tính chất và cách thức vận động của TGHĐ thông qua tác động của một hệ thống các công cụ điều chỉnh cung - cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối (TTNH) nhằm phục vụ cho định hướng của nền kinh tế quốc gia trong một thời kỳ nhất định. Nói cách khác, cơ chế tỷ giá hối đoái phản ánh cách thức xác định tỷ giá hối đoái mà NHTW hoặc Chính phủ lựa chọn và cách thức can

thiệp vào tỷ giá hối đoái của Ngân hàng Trung ương.

Can thiệp (intervention) trên thị trường ngoại hối: là việc mua hoặc bán đồng tiền của nền kinh tế trên thị trường ngoại hối bởi cơ quan quản lý của chính phủ (thường là NHTW) nhằm tác động đến tỷ giá hối đoái. Việc mua bao gồm bán đồng nội tệ lấy ngoại tệ, dự trữ ngoại hối của NHTW tăng. Việc bán bao gồm bán dự trữ ngoại hối lấy nội tệ, dự trữ ngoại hối của NHTW giảm. Hình thức can thiệp trên

TTNH có thể là can thiệp vô hiệu (Sterilized) hay can thiệp không vô hiệu (Unsterilized) [200]1.

2.2.1.2. Các cơ chế tỷ giá hối đoái cơ bản

- Cơ chế tỷ giá hối cố định (Fixed exchange rate) là cơ chế theo đó đồng tiền của một quốc gia được neo vào đồng tiền của một quốc gia khác, nó được xem như một cam kết của Chính phủ và NHTW trong việc đảm bảo giá trị đồng nội tệ. Không những thế, nó còn là một điều kiện để tăng cường kỷ luật tiền tệ và tài khóa cho quốc gia đó. Nếu như Chính phủ và NHTW đã cam kết duy trì TGHĐ cố định mà vì một lý do nào đó dẫn đến phải phá giá đồng nội tệ thì chính phủ đó sẽ chịu tổn thất chính trị nặng nề về mặt chính sách kinh tế và có thể bị trừng phạt (đây là một tiêu chí của Mỹ đưa ra để trừng phạt những nước bị cáo buộc là thao túng tiền tệ). Hệ quả là chính phủ và NHTW sẽ phải cân đối ngân sách tốt và luôn điều hành kinh tế để có mức lạm phát thấp nhằm bảo vệ cơ chế TGHĐ cố định đã chọn.

- Cơ chế tỷ giá hối đoái thả nổi (Floating exchange rate) hay cơ chế TGHĐ linh hoạt (flexible exchange rate) là cơ chế TGHĐ được xác định theo quy luật cung cầu trên thị trường ngoại hối (TTNH), không có bất kỳ sự can thiệp nào của NHTW. Trong cơ chế này, các dòng hàng hóa và dòng vốn ra vào quốc gia sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến TGHĐ, Ngân hàng Trung ương đóng vai trò là một chủ thể bình thường trên TTNH, nghĩa là NHTW có thể mua hay bán một đồng tiền nhất định để phục vụ cho mục đích hoạt động của mình chứ không nhằm mục đích can thiệp lên TGHĐ. Trong thực tế, mặc dù NHTW tuyên bố áp dụng cơ chế tỷ giá thả nổi, nhưng trước sự biến động thất thường của TGHĐ, Ngân hàng Trung ương không phó mặc cho thị trường, NHTW cũng có những can thiệp để giảm sự biến động của TGHĐ.

- Cơ chế tỷ giá hối đoái thả nổi có quản lý (Managed exchange rate) là biến thể của cơ chế TGHĐ thả nổi. Khi ấy, tỷ giá hối đoái được xác định trên thị trường ngoại hối theo quy luật cung - cầu về ngoại tệ, còn Nhà nước (thông qua NHTW) chỉ can thiệp vào thị trường khi TGHĐ có những biến động bất thường.


1 Nguồn: U.S. Treasury Department, Report to Congress, tháng 12/2020

Xem tất cả 212 trang.

Ngày đăng: 11/07/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí