với cách điều hành tỷ giá theo tỷ giá trung tâm (áp dụng từ tháng 1/2016). Từ phép so sánh này, các nhà điều hành chính sách sẽ thấy rò hơn những vấn đề đặt ra trong cơ chế điều hành TGHĐ, từ đó đưa ra những quyết sách hữu hiệu hơn trong điều hành TGHĐ ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế.
Một trong những nội dung mới trong Luận án là việc Việt Nam đã bị Mỹ gắn mác là quốc gia thao túng tiền tệ vào tháng 12/2020. Luận án phân tích, chỉ rò nguyên nhân tại sao Việt Nam lại bị Mỹ phán quyết như vậy, đồng thời, Luận án đưa ra các gợi ý chính sách (dưới góc độ điều hành chính sách tiền tệ và chính sách tỷ giá) để Việt Nam không bị gắn mác là quốc gia thao túng tiền tệ. Những gợi ý chính sách này có ý nghĩa thực tiễn cao đối với các nhà quản lý tiền tệ, các nhà lập chính sách và các nhà nghiên cứu.
7. Kết cấu của Luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, Luận án bao gồm 4 chương sau đây:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu về cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái Chương 2: Cơ sở lý luận và kinh nghiệm về cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái
trong điều kiện hội nhập quốc tế
Chương 3: Thực trạng cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế
Chương 4: Giải pháp hoàn thiện cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VÀ CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI
Có thể bạn quan tâm!
- Cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế - 1
- Cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế - 2
- Các Nghiên Cứu Về Mối Quan Hệ Giữa Tỷ Giá Hối Đoái Với Lạm Phát, Với Cán Cân Thương Mại Và Vay Nợ Nước Ngoài Của Việt Nam
- Chênh Lệch Giữa Lạm Phát Trong Nước Và Nước Ngoài
- Cơ Chế Tỷ Giá Hối Đoái Theo Cách Phân Loại Của Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế
Xem toàn bộ 212 trang tài liệu này.
1.1. Tổng quan nghiên cứu về cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái
1.1.1. Nghiên cứu về cơ chế tỷ giá hối đoái
1.1.1.1. Các nghiên cứu ngoài nước về cơ chế tỷ giá hối đoái
Cơ chế tỷ giá hối đoái được hiểu là khuôn khổ chung để điều chỉnh và quản lý tỷ giá hối đoái. Thông qua cơ chế TGHĐ có thể thấy được cách thức chung điều hành tỷ giá hối đoái của Ngân hàng Trung ương.
Việc lựa chọn cơ chế tỷ giá hối đoái phù hợp cho mỗi thời kỳ là rất cần thiết. Có hai quan điểm khác nhau về lựa chọn cơ chế tỷ giá hối đoái: Thứ nhất cho rằng, lựa chọn cơ chế tỷ giá hối đoái (TGHĐ) và kết quả hoạt động của nền kinh tế không có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Đó là các nghiên cứu của Flood và Rose (1995) và Gosh et al (1997), kết luận của họ cho thấy việc lựa chọn cơ chế tỷ giá ảnh hưởng tương đối nhỏ đến hoạt động của nền kinh tế [142], [146]. Thứ hai cho rằng, lựa chọn cơ chế TGHĐ thực sự là vấn đề đối với hoạt động kinh tế [163]. Nghiên cứu mối liên hệ giữa TGHĐ và phát triển kinh tế của các nước trong giai đoạn hậu Bretton Woods, sử dụng cách phân loại theo thực tế (de facto) dựa trên những thay đổi thực tế của các biến số kinh tế vĩ mô, nhóm nghiên cứu phát hiện ra rằng, đối với các quốc gia đang phát triển, tỷ giá hối đoái kém linh hoạt hơn đi đôi với phát triển thấp hơn. Đối với các quốc gia công nghiệp hóa, tỷ giá hối đoái có ảnh hưởng đáng kể đến sự phát triển. Ilker và Maria (2000), sử dụng dữ liệu các nước đã và đang phát triển trong 2 thập kỷ, cho rằng ở các nước đang phát triển áp dụng TGHĐ cố định sẽ làm giảm nguy cơ khủng hoảng ngân hàng [150]. Tuy nhiên, một khi khủng hoảng xảy ra thì các quốc gia có TGHĐ cố định chịu tổn thất lớn hơn các quốc gia có TGHĐ linh hoạt. Những phát hiện gần đây cho thấy một quốc gia càng hội nhập sâu rộng vào thị trường vốn quốc tế và có hệ thống tài chính lành mạnh, càng nên lựa chọn cơ chế TGHĐ linh hoạt hơn.
Trong bài viết ―A theory of optimum currency areas – Lý thuyết về khu vực tiền tệ tối ưu”, Mundell (1961) đã đưa ra lý thuyết để xác định một cơ chế TGHĐ xét trên khả năng duy trì cân bằng kinh tế đối nội, cân bằng kinh tế đối ngoại và đã chỉ ra rằng: i) Đối với các nền kinh tế quy mô nhỏ, mở cửa thì cơ chế tỷ giá cố định sẽ phù hợp hơn;
ii) Một nước càng ít đa dạng hoá trong cơ cấu sản xuất, xuất khẩu và ngoại thương, càng tập trung về địa lý thì cơ chế tỷ giá cố định càng phù hợp; iii) những nước có cơ
cấu xuất khẩu kém đa dạng thì các nguồn thu ngoại hối thường có nhiều biến động, do tập trung vào một số mặt hàng nhất định và do đó thường có xu hướng neo TGHĐ nhằm tránh những tác động xấu khi diễn ra tình trạng TGHĐ biến động mạnh [171].
Trong nghiên cứu ―No single currency regime is right for all countries or at all times - Không có chế độ tiền tệ nào là phù hợp với tất cả các quốc gia hoặc mọi lúc”, Frankel, Jeffrey, (1999), khi nghiên cứu cơ chế TGHĐ của các nước trong khoảng thời gian từ năm 1980 đến năm 1990 đã đi đến nhận định rằng, trên thực tế không tồn tại một cơ chế TGHĐ phù hợp với mọi quốc gia, và cũng không có một cơ chế TGHĐ nào phù hợp với một quốc gia mãi mãi. Nghiên cứu này đã giúp các quốc gia nhìn nhận rằng, không nên theo đuổi một cơ chế TGHĐ có thể được cho là tối ưu của một quốc gia nào đó, mà cần phải xem xét điều kiện kinh tế cụ thể của đất nước mình và lựa chọn thời điểm để áp dụng một cơ chế TGHĐ nhất định. Jeffrey A. Frankel cũng khẳng định, việc mỗi quốc gia thay đổi cơ chế TGHĐ sao cho phù hợp với từng thời kỳ phát triển kinh tế là tất yếu. Điều quan trọng nhất khi trả lời câu hỏi của một số quốc gia là nên áp dụng cơ chế TGHĐ cố định hay thả nổi là phải xem xét quy mô và mức độ mở cửa nền kinh tế của quốc gia đó [140].
IMF (2007) trong ―Chuyển sang tỷ giá linh hoạt hơn: như thế nào, khi nào và nhanh như thế nào - Moving to a greater e flexibility: How, When, and How fast” đã đưa ra bốn điều kiện để chuyển đổi thành công sang cơ chế TGHĐ linh hoạt hơn [153]: Thứ nhất, thị trường ngoại hối (TTNH) phát triển và có tính thanh khoản cao, có nghĩa là chênh lệch giữa tỷ giá mua và tỷ giá bán ở mức nhỏ, phí giao dịch thấp, doanh số giao dịch lớn, hệ thống giao dịch phải thuận tiện và các đối tượng tham gia thị trường phải rộng; thứ hai, can thiệp của NHTW được thực hiện có chọn lựa hoặc không định trước, theo đó NHTW phải xác định mục tiêu, thời gian và khối lượng can thiệp; thứ ba, lựa chọn neo danh nghĩa thích hợp thay thế neo cố định TGHĐ; thứ tư, hệ thống giám sát và quản lý rủi ro tỷ giá của cả khu vực công và khu vực tư nhân. Nghiên cứu của IMF giúp các quốc gia có cơ sở lý luận để tiến hành khảo sát thực trạng cũng như đưa ra các giải pháp để đáp ứng những điều kiện cần thiết nêu trên trong quá trình linh hoạt hóa cơ chế TGHĐ. .
Như vậy, các nghiên cứu ngoài nước, đặc biệt là của IMF về cơ chế TGHĐ đã cung cấp các luận chứng khoa học về các cơ chế TGHĐ khác nhau, cách lựa chọn cơ chế TGHĐ phù hợp với điều kiện của từng nước, cũng như đưa ra các khuyến nghị cần thiết khi chuyển đổi sang cơ chế TGHĐ linh hoạt hơn. Tuy nhiên, các nghiên cứu trên mới chỉ dừng lại ở việc đưa ra các luận điểm chung áp dụng cho tất cả các nước trên
thế giới mà chưa có nghiên cứu riêng cho Việt Nam.
1.1.1.2. Các nghiên cứu trong nước về lựa chọn cơ chế TGHĐ
Trong nghiên cứu “Lựa chọn chính sách tỷ giá trong bối cảnh phục hồi kinh tế” của Nguyễn Thị Thu Hằng và các cộng sự (2010) đã khẳng định: cơ chế tỷ giá của Việt Nam hiện nay là cơ chế neo tỷ giá có điều chỉnh ngày càng bộc lộ ra những hạn chế. Cùng với việc so sánh tỷ giá chính thức và tỷ giá trị trường tự do năm 2009, tỷ giá thực tế và tỷ giá danh nghĩa giai đoạn 2000-2009, các tác giả cũng đã tính toán tỷ giá thực đa phương ở Việt Nam và đi đến kết luận đáng chú ý là đồng VND lên giá nhiều so với các đồng tiền của các nước đối tác, đây là nguyên nhân của sự sụt giảm tính cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam và dẫn đến sự gia tăng nhập siêu của nền kinh tế. Trên cơ sở đó, các tác giả đã đề xuất: i) Việt Nam nên chuyển sang cơ chế TGHĐ thả nổi có quản lý; ii) Khi từ bỏ cơ chế neo tỷ giá, NHNN phải trở nên độc lập hơn; và iii) cần hiện đại hóa thị trường ngoại hối ở Việt Nam [28].
Trong nghiên cứu “Áp dụng chính sách lạm phát mục tiêu: lý luận và thực tiễn” của Tô Thị Ánh Dương (2015), cũng như trong nghiên cứu “Các biện pháp vô hiệu hoá trong ràng buộc bộ ba bất khả thi tại Việt Nam - đánh giá và những khuyến nghị chính sách” của Tô Trung Thành (2012), các tác giả đều có nhận định rằng, để tiến tới thực hiện chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu (LPMT) thì phải lựa chọn cơ chế TGHĐ linh hoạt cho nền kinh tế Việt Nam [22], [84].
Tóm lại, tuy đã có nhiều công trình nghiên cứu về việc lựa chọn cơ chế điều hành TGHĐ phù hợp với Việt Nam, nhưng đây vẫn luôn được coi là vấn đề mới trong bối cảnh trong nước và thế giới đầy biến động. Lựa chọn cơ chế điều hành TGHĐ phù hợp cho Việt Nam nhằm đáp ứng mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô trong quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng là rất cần thiết.
1.1.2. Cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái và lý thuyết “Bộ ba bất khả thi”
Đối với mỗi quốc gia việc lựa chọn chính sách kinh tế vĩ mô luôn đối diện với
―Bộ ba bất khả thi‖, đó là không thể đồng thời đạt được ba mục tiêu (là ba đỉnh của tam giác ―Bộ ba bất khả thi‖): Ổn định tỷ giá, chính sách tiền tệ độc lập và tự do hóa tài khoản vốn.
Lý thuyết ―Bộ ba bất khả thi‖ là một lý thuyết cơ bản của kinh tế vĩ mô được sử dụng khá phổ biến, dựa trên mô hình Mundell-Fleming được Robert Mundell và Marcus Fleming phát triển từ những năm 1960. Từ năm 1980, khi mà nhiều nước bắt đầu chú trọng mở cửa tài khoản vốn, thì những mâu thuẫn giữa việc giữ ổn định tỷ giá hối đoái và chính sách tiền tệ độc lập tất yếu xuất hiện.
Mô hình Mundell-Fleming cho thấy: nếu một quốc gia theo đuổi mục tiêu kiểm soát tài khoản vốn (đỉnh của tam giác) thì phải lựa chọn chính sách tiền tệ (CSTT) độc lập và cố định TGHĐ; nếu chọn cơ chế TGHĐ thả nổi (góc bên trái tam giác) thì sẽ tự chủ về CSTT và tự do hóa tài khoản vốn; còn nếu lựa chọn cơ chế TGHĐ cố định (góc bên phải tam giác) để tự do hóa tài khoản vốn thì CSTT sẽ bị phụ thuộc (hình 1.1).
Kiểm soát
tài khoản vốn
Chính sách tiền tệ độc lập
Tỷ giá hối đoái
ổn định
Tỷ giá hối đoái thả nổi
Chính sách tiền tệ phụ thuộc
Tự do hóa
tài khoản vốn
Hình 1.1. Tam giác “Bộ ba bất khả thi”
Nguồn: Frankel (1999) [133].
Frankel, Jeffrey, (1999) cũng chỉ rò, trong thực tế, tùy theo từng thời điểm, để thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế đã đề ra, từng quốc gia có thể mở rộng vận dụng lý thuyết ―Bộ ba bất khả thi‖, tức là trên cơ sở điều kiện cụ thể mà có thể lựa chọn CSTT bán độc lập (half-independence) và cơ chế tỷ giá bán ổn định (half-stability) để hội nhập sâu hơn vào thị trường tài chính toàn cầu, đó là lựa chọn tam giác nằm ở phía trong tam giác ban đầu – khi ấy được gọi là mô hình trung dung (hay dung hòa)1- theo đó, có sự kết hợp giữa kiểm soát tài khoản vốn ở mức độ vừa phải, đồng thời cũng cho
phép TGHĐ biến động trong một giới hạn nhất định để có được sự độc lập CSTT ở một mức độ nhất định [140].
Trong công trình ―Lựa chọn cơ chế tỷ giá hối đoái - Choosing an exchange rate regime”, của Calderon và Schmidt-Hebbel (2008) đã đánh giá xác suất các quốc gia lựa chọn cơ chế TGHĐ cố định hay thả nổi qua một số các biến số kinh tế vĩ mô và đã đi đến kết luận là những quốc gia tự do hóa dòng chu chuyển vốn và có thị trường tài chính phát triển thường lựa chọn cơ chế TGHĐ thả nổi để có thể duy trì CSTT độc lập [128].
1 Tương đồng với từ ―trung dung‖ còn có từ ―trung hòa‖ hay ―dung hòa‖
Bên cạnh đó, một số nghiên cứu khác lại tập trung phân tích sự đánh đổi giữa các mục tiêu chính sách trong sự ràng buộc của "Bộ ba bất khả thi". Frankel, Schmukler và Servén (2002) cho rằng mô hình "trung dung" chịu nhiều vấn đề nghiêm trọng hơn so với mô hình tại các góc của tam giác "Bộ ba bất khả thi": Sự tăng lên của các dòng chu chuyển vốn trên thế giới có thể khiến cho các nước, hoặc phải lựa chọn TGHĐ cố định (như tham gia khu vực tiền tệ chung), hoặc là phải lựa chọn thả nổi tỷ giá hoàn toàn, theo đó, những mô hình "trung dung" luôn phải chấp nhận sự đánh đổi mục tiêu [141]. Patnaik và Shah (2010) nghiên cứu về 11 nước Châu Á, theo đó, phần lớn các nước thực thi cơ chế TGHĐ ít linh hoạt thay vì thả nổi hoàn toàn do các dòng vốn quốc tế đổ vào với quy mô rất lớn khiến đồng nội tệ tăng giá, gây ảnh hưởng đến kim ngạch xuất khẩu và tốc độ tăng trưởng GDP của nền kinh tế [185].
Aizenman và Ito (2012) trong nghiên cứu về các nền kinh tế thị trường mới nổi cho thấy ở những nước này, TGHĐ thả nổi có quản lý được củng cố bởi lượng dự trữ ngoại hối lớn, mức độ độc lập tiền tệ trung bình và hội nhập tài chính có kiểm soát. Các nền kinh tế thị trường mới nổi với những lựa chọn chính sách hội tụ lại vùng trung gian có xu hướng chịu ít bất ổn trong tăng trưởng hơn trong hai thập niên gần đây. Như vậy, ngoài việc đánh giá xu hướng chính sách và tác động ở các quốc gia, nghiên cứu cũng tiếp tục nhấn mạnh vai trò của dự trữ ngoại hối như một điều kiện để các quốc gia có thể phát huy tối đa các kết hợp chính sách của mình [119].
Một số nghiên cứu khác đi sâu vào việc giải quyết "Bộ ba bất khả thi" ở từng quốc gia. Joshi (2003) cho rằng, trong những năm 1990, Ấn Độ lựa chọn mô hình "trung dung" là thả nổi TGHĐ, nhưng có quản lý với sự kiểm soát tài khoản vốn, cho phép quốc gia này có thể giữ được mức tỷ giá mục tiêu với CSTT tự chủ và vượt qua khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á năm 1997-1998 [161]. Tuy nhiên, tối ưu nhất trong dài hạn là phải tự do hóa tài khoản vốn ở mức độ cao hơn và thả nổi hơn nữa về TGHĐ. Khoon (2009), khi nghiên cứu về Malaysia, đã chỉ rò, việc bỏ kiểm soát tài khoản vốn từ năm 1998 với việc theo đuổi cơ chế TGHĐ cố định đã khiến Malaysia phải từ bỏ độc lập về CSTT. Chỉ đến tháng 7/2005 thì Malaysia mới có thể áp dụng tỷ giá thả nổi có quản lý và lấy lại được sự tự chủ về CSTT khi mở cửa hoàn toàn thị trường vốn [162]. Nghiên cứu của Hesse (2007) cho thấy, Thái Lan trước khủng hoảng 1997 có CSTT ở tình trạng ít độc lập bởi cơ chế TGHĐ cố định và thực hiện tự do hóa tài khoản vốn. Sau khủng hoảng, việc giải quyết "Bộ ba bất khả thi" với mô hình "trung dung" thu được hiệu quả tốt hơn, theo đó, CSTT và tỷ giá đã có những ảnh hưởng tích cực đến các biến số sản lượng và giá
cả của nền kinh tế trong gần một thập niên tiếp theo [149].
Aizenman và Glick (2008) trong nghiên cứu về ―Vô hiệu hóa, chính sách tiền tệ và hội nhập tài chính toàn cầu - Sterilization, monetary policy, and global financial integration‖ xu thế chính sách của các nước mới nổi, đã nêu bật lên xu hướng hội tụ về mẫu hình trung gian của bộ ba bất khả thi [117]. Trong thập kỷ 1990, các nước Mexico (1994); Thái Lan, Indonesia và Hàn Quốc (1997); Nga và Brazil (1998), Argentina và Thổ Nhĩ Kỳ (2000) đã gánh chịu hàng loạt các cuộc khủng hoảng gắn liền với cơ chế neo tỷ giá cố định (hard peg) và cơ chế tỷ giá neo mềm (soft peg) và xu hướng hội nhập tài chính. Cùng thời gian đó, các quốc gia không theo cơ chế neo tỷ giá như Mexico, Israel và Nam Phi lại tránh được khủng hoảng. Kết quả là, các quốc gia mới nổi đã hướng đến một mẫu hình trung gian của ―Bộ ba bất khả thi‖ với tỷ giá thả nổi có quản lý, trong khi vẫn giữ độc lập tiền tệ ở một mức độ nhất định và hội nhập tài chính sâu rộng. Để thực hiện điều này các quốc gia này đã kết hợp chính sách dự trữ ngoại hối lớn và can thiệp vô hiệu hóa.
Từ cuối năm 1980 đến đầu năm 1990, Hàn Quốc, Mexico và một vài nước Châu Á khác đã chấp nhận tự do hóa và mở cửa tài chính, tuy nhiên, vẫn tiếp tục duy trì độc lập tiền tệ và ổn định tỷ giá. Theo thuyết Mundell – Fleming thì lựa chọn này là bất khả thi. Do các mục tiêu chính sách không nhất quan nên dẫn đến khủng hoảng nghiêm trọng ở Mexico vào các năm 1994-1995 và khủng hoảng Đông Á vào các năm 1997–1998. Các cuộc khủng hoảng đó đã chứng minh rằng: Một quốc gia khi cố gắng mở cửa tài chính thì phải từ bỏ ổn định tỷ giá nếu muốn duy trì độc lập tiền tệ. Những năm 1990, Argentina đã cố gắng đạt được cơ chế neo tỷ giá cố định (hard peg) và hội nhập tài chính hoàn toàn, kết quả là Argentina cũng phải trải qua cuộc khủng hoảng vào đầu những năm 2000 khi họ không có khả năng chịu đựng việc mất đi sự độc lập tiền tệ. Sau các khủng hoảng này thì các quốc gia thị trường mới nổi mới bắt đầu theo đuổi mẫu hình ―Bộ ba bất khả thi‖ với tỷ giá linh hoạt có quản lý, duy trì độc lập tiền tệ và tăng cường hội nhập về tài chính.
Như vậy, hệ quả quan trọng nhất của định đề ―Bộ ba bất khả thi‖ là: Trong xu thế hội nhập và thống nhất hóa thị trường tài chính, tự do hoá các dòng vốn quốc tế, việc một nước sẽ lựa chọn cơ chế TGHĐ hoàn toàn linh hoạt hay hoàn toàn cố định sẽ phụ thuộc vào một trong hai mục tiêu cơ bản mà nước đó muốn đạt được (CSTT độc lập hay ổn định tỷ giá). Trong điều kiện thực hiện CSTT lạm phát mục tiêu (Inflation Targeting-IT), cần có một CSTT độc lập thì NHTW buộc phải linh hoạt TGHĐ; và khi linh hoạt TGHĐ, NHTW cần phải xem xét đến hiệu ứng dẫn truyền từ TGHĐ sang lạm phát, bởi lẽ nếu hiệu ứng dẫn truyền này ở mức cao thì việc thực thi chính sách
tiền tệ lạm phát mục tiêu (LPMT) sẽ gặp nhiều khó khăn.
Tô Kim Ngọc (2019), trong đề tài nghiên cứu khoa học cấp Ngành ―Nghiên cứu mức độ đánh đổi của ―Bộ ba bất khả thi‖ và gợi ý cho Việt Nam‖. Tác giả nghiên cứu xu hướng điều chỉnh và quản lý ―bộ ba bất khả thi‖; mức độ tác động của sự điều chỉnh mục tiêu bộ ba chính sách tới tăng trưởng và ổn định tài chính từ kinh nghiệm các nước như Singapore, Trung Quốc, Indonesia,... Tác giả sử dụng dữ liệu của Việt Nam giai đoạn 2000-2017 để kiểm nghiệm sự tồn tại ràng buộc của ―bộ ba bất khả thi‖ đối với Việt Nam; xác định các nhân tố ảnh hưởng tới ràng buộc ―bộ ba bất khả‖ thi bằng mô hình SUR (Seemingly Unrelated Regression) và đánh giá ảnh hưởng của quy mô dự trữ tới tác động của bộ ba chính sách trong việc đạt được các mục tiêu vĩ mô (tăng trưởng kinh tế, lạm phát, ổn định tài chính). Tác giả phân tích và định lượng mức độ độc lập của CSTT, mức độ ổn định của chính sách TGHĐ, mức độ hội nhập tài chính của Việt Nam; nghiên cứu và đánh giá thực trạng về sự lựa chọn và phối hợp mục tiêu bộ ba chính sách của Việt Nam giai đoạn từ 2000 - 2017. Tác giả đề xuất Việt Nam cần tiếp tục theo đuổi mô hình trung dung, có ưu tiên về độc lập tiền tệ, chấp nhận giảm dần ổn định TGHĐ và cải thiện quy mô dự trữ ngoại hối [56].
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên đây đã đề cập đến một số khía cạnh liên quan đến cơ chế TGHĐ đặt trong mối quan hệ ―Bộ ba bất khả thi‖ gắn liền với điều kiện cụ thể của một số quốc gia có đặc điểm và trình độ phát triển kinh tế khác nhau. Tuy nhiên, những nghiên cứu nêu trên chủ yếu tập trung vào giai đoạn trước khi diễn ra khủng hoảng tài chính toàn cầu, không trùng với khung thời gian nghiên cứu của Luận án, hoặc là trong bối cảnh Việt Nam chưa hội nhập sâu rộng vào hệ thống tài chính toàn cầu.
1.1.3. Nghiên cứu về cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái tại Việt Nam
Nguyễn Quang Huy (2009) trong đề tài cấp ngành“Cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái phù hợp trong điều kiện hiện nay‖ đã khẳng định cơ chế tỷ giá hiện thời của Việt Nam là cơ chế linh hoạt có quản lý, việc sử dụng tỷ giá bình quân liên ngân hàng (BQLNH) và biên độ tỷ giá đã góp phần hạn chế tình trạng đầu cơ và tác động của biến động tỷ giá trên thị trường nước ngoài, hạn chế tình trạng nhập siêu, các giải pháp cải thiện cán cân thanh toán. Nghiên cứu đã có những ứng dụng nhất định đối với các cơ quan quản lý nhà nước trong việc vận hành cơ chế TGHĐ trong giai đoạn trước năm 2009 [35].
Luận án của Hoàng Thị Lan Hương (2013) về “Hoàn thiện chính sách tỷ giá ở