Là phần thị trường mà doanh nghiệp đã chiếm được. Khi đánh giá sức cạnh tranh của một doanh nghiệp người ta thường nhìn vào thị phần của nó ở những thị trường cạnh tranh tự do (hay còn gọi là thị trường phi hạn ngạch).
Thị phần là một chỉ tiêu tổng hợp phản ánh khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Thị phần càng lớn thì sức cạnh tranh của doanh nghiệp càng mạnh. Để tồn tại và có sức cạnh tranh, doanh nghiệp phải chiếm giữ được một phần thị trường bất kể nhiều hay ít dù nó là địa phương, quốc gia hay thế giới, chính điều này đã phản ánh được quy mô tiêu thụ của doanh nghiệp. Qua đó ta cũng có thể đánh giá được sức cạnh tranh của mỗi một doanh nghiệp, ưu thế cũng như các điểm mạnh, điểm yếu tương đối của doanh nghiệp so với các đối thủ cạnh tranh.
Tuy nhiên khi sử dụng chỉ tiêu thị phần làm chỉ tiêu đánh giá khả năng cạnh tranh cần lưu ý đặt thị phần ở các điều kiện thanh toán khác nhau:
+ Nếu hình thức thanh toán là bình thường (nghĩa là doanh nghiệp nhận được tiền ngay hoặc đảm bảo chắc chắn sẽ nhận tiền) thì thị phần càng cao doanh số càng lớn, lợi nhuận càng nhiều và khă năng cạnh tranh của doanh nghiệp càng lớn.
+ Nếu bán hàng theo hình thức bán chịu nhiều thì khả năng thu hồi vốn chậm, đôi khi còn gặp rủi ro trong việc thu hồi vốn, khi đó thị phần lớn chưa hẳn đã tốt, có lúc còn gây khó khăn cho doanh nghiệp.
Thường có các loại thị phần sau:
+ Thị phần tương đối: Là tỷ lệ so sánh về doanh số của doanh nghiệp với doanh số của đối thủ cạnh tranh mạnh nhất. Nó cho biết vị thế của sản phẩm trong cạnh tranh trên thị trường là như thế nào, thông qua sự biến động của các chỉ tiêu mà doanh nghiệp biết mình đang ở vị trí nào, từ đó vạch ra chiến lược cạnh tranh hợp lý.
+ Thị phần của doanh nghiệp trong phân đoạn mà doanh nghiệp phục vụ: Là tỷ lệ phần trăm doanh số của doanh nghiệp so với doanh số của phân đoạn thị trường đó.
+ Thị phần của doanh nghiệp so với toàn bộ thị trường: Là tỷ lệ phần trăm doanh số của doanh nghiệp so với doanh số của toàn ngành.
Có thể bạn quan tâm!
- Nâng cao năng lực cạnh tranh của tổng công ty viễn thông quân đội - Viettel trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế - 1
- Nâng cao năng lực cạnh tranh của tổng công ty viễn thông quân đội - Viettel trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế - 2
- Các Chỉ Tiêu Đánh Giá Năng Lực Cạnh Tranh Của Doanh Nghiệp
- Quá Trình Hội Nhập Khu Vực Và Quốc Tế Ở Việt Nam
- Mô Hình Tổ Chức Tổng Công Ty Viễn Thông Quân Đội
- Tỷ Lệ Các Dịch Vụ Chủ Yếu Trong Tổng Doanh Thu Của Viettel.
Xem toàn bộ 129 trang tài liệu này.
1.3. Chi phí đơn vị sản phẩm
Nếu các yếu tố khác như thuế, các chính sách vĩ mô, giá bán… là không đổi thì chi phí đơn vị sản phẩm thấp sẽ mang lại khả năng cạnh tranh cao cho đơn vị.
Chi phí đơn vị sản phẩm bao gồm chi phí nguyên vật liệu, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung. Nếu doanh nghiệp tối ưu hóa được những khoản chi phí này sẽ tạo lợi thế chi phí thấp, giá thành sản phẩm hạ hơn với các đối thủ cạnh tranh. Như vậy doanh nghiệp sẽ có khả năng cạnh tranh cao.
1.4. Các chỉ số tài chính
Tình hình tài chính của một doanh nghiệp có tầm quan trọng tối cao trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Khả năng nguồn tài chính mạnh cần được cân nhắc khi đánh giá năng lực cạnh tranh. Các chỉ số: lợi nhuận, dòng tiền mặt, tỷ lệ vốn vay, mức dự trữ và hiệu suất lợi tức cổ phần. Cụ thể, các hệ số thanh khoản (tỷ lệ thanh khoản có thể sử dụng, tỷ lệ vốn có thể sử dụng ngay), các hệ số hoạt động (chu chuyển tài sản, chu chuyển dự trữ, chu chuyển khoản nợ phải thu), các chỉ số sinh lợi (lợi nhuận cận biên, tỷ suất lợi nhuận trên vốn đầu tư), các tỷ số vốn vay (nợ trên tài sản ròng, nợ trên tổng tài sản), nguồn vốn và ngân quỹ là những chỉ số cần xem xét nếu muốn đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
1.5. Giá cả sản phẩm và dịch vụ
Giá cả là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Nó bao gồm cả giá mua, giá nhập nguyên vật liệu và giá bán sản phẩm. Nếu doanh nghiệp có lợi thế về giá nhập nguyên vật liệu thấp tức là chi phí cho sản phẩm thấp thì giá bán sản phẩm sẽ thấp hơn đối thủ cạnh tranh dẫn đến doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh cao hơn.
Giá trị gia tăng của hàng hóa: Giá trị gia tăng của sản phẩm là phần chênh lệch giữa giá sản xuất (giá vốn hàng bán) và giá bán ra. Nếu các yếu tố khác là không đổi thì sản phẩm nào có giá trị gia tăng cao hơn sẽ thu được lợi nhuận cao hơn. Các doanh nghiệp cần phải nâng cao khả năng cạnh tranh của các sản phẩm có giá trị gia tăng cao.
1.6. Năng suất lao động
Đây là chỉ tiêu thể hiện sức sản xuất của người lao động và được đo bằng số lượng sản phẩm được sản xuất ra trong một đơn vị thời gian.
Năng suất lao động cũng được coi là một chỉ tiêu đánh giá khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp bởi nó là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh tế nói chung và sử dụng lao động nói riêng của doanh nghiệp. Năng suất lao động cao thể hiện hiệu quả kinh doanh, chất lượng lao động, trình độ quản lý và sử dụng lao động của doanh nghiệp tốt, có hiệu quả, là điều kiện để các doanh nghiệp tiết kiệm chi phí sản xuất, từ đó giảm giá thành sản phẩm và nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
2. Nhóm chỉ tiêu định tính
Nhóm chỉ tiêu định tính không đo lường được bằng số lượng cụ thể nhưng nó rất quan trọng khi đánh giá khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
2.1. Uy tín của doanh nghiệp:
Là yếu tố tác động rất lớn đến tâm lý người tiêu dùng và dẫn đến quyết định mua của khách hàng. Uy tín của doanh nghiệp sẽ tạo lòng tin cho khách hàng, cho nhà cung cấp và cho các đối tác kinh doanh dẫn đến doanh nghiệp sẽ có nhiều thuận lợi và được ưu đãi trong quan hệ với bạn hàng. Uy tín của doanh nghiệp là một tài sản vô hình của doanh nghiệp. Khi giá trị nguồn tài sản này cao sẽ giúp doanh nghiệp tăng khả năng thâm nhập vào thị trường trong và ngoài nước, khối lượng sản phẩm tiêu thụ lớn, doanh thu tăng, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp được nâng cao.
2.2. Chất lượng các dịch vụ
Trong quá trình sản xuất kinh doanh từ đầu vào cho đến đầu ra đều có các dịch vụ kèm theo. Đối với các doanh nghiệp sản xuất thì đầu vào trong quá trình sản xuất là rất quan trọng. Bao gồm các dịch vụ về công nghệ kỹ thuật, dịch vụ thiết kế mẫu mã, dịch vụ quản lý… Chất lượng các dịch vụ này tốt sẽ là điều kiện tốt cho sản xuất sản phẩm đạt yêu cầu chất lượng, đảm bảo yêu cầu kỹ thuật.
Khi sản xuất hàng hóa càng phát triển, hàng hóa cung ứng ngày càng nhiều thì nhu cầu người tiêu dùng càng cao, họ không chỉ đòi hỏi hàng hóa tốt, giá rẻ mà
họ còn đòi hỏi chất lượng phục vụ tốt. Các dịch vụ trong và sau khi bán ra là một đòi hỏi tất yếu. Các dịch vụ này có thể là các dịch vụ vận chuyển, lắp ráp, vận hành thử, dịch vụ bảo hành hoặc cung cấp nguyên vật liệu trong quá trình sử dụng… Giá bán của doanh nghiệp giống như đối thủ cạnh tranh, nếu doanh nghiệp có chất lượng dịch vụ trong và sau bán tốt thì doanh nghiệp sẽ có khả năng cạnh tranh vì khi người mua mua hàng của doanh nghiệp, họ sẽ tiết kiệm được chi phí cho việc mua hàng và tiêu dùng hàng hóa.
2.3. Sự nổi tiếng của nhãn mác
Nhãn mác là tên gọi, thuật ngữ, biểu tượng, mẫu vẽ hay là sự kết hợp của các yếu tố đó nhằm xác nhận hàng hóa và dịch vụ của người bán và để phân biệt với sản phẩm của đối thủ cạnh tranh.
Mác hiệu thương mại là toàn bộ nhãn hiệu hay một phần của nhãn hiệu được pháp luật bảo vệ và được đảm bảo độc quyền của người bán trong việc sử dụng tên hiệu hay dấu hiệu đó trên thị trường. Mác hiệu thương mại đảm bảo cho người bán một sự bảo hộ của pháp luật đối với những tính chất độc đáo của sản phẩm nếu không sẽ bị nhái theo.
Một nhãn mác tốt sẽ tạo dựng hình ảnh cho doanh nghiệp đồng thời giúp doanh nghiệp thu hút được những khách hàng trung thành. Khi nhãn mác trở nên nổi tiếng thì nó sẽ gây được sự chú ý của khách hàng, thu hút khách hàng mua các sản phẩm có nhãn hiệu của doanh nghiệp. Nhãn mác càng nổi tiếng thì khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp càng cao.
2.4. Lợi thế thương mại
Một doanh nghiệp được đặt ở vị trí thuận lợi về giao thông vận tải, dân cư đông đúc thì các hoạt động thương mại, mua bán sẽ phát triển. Bởi vì, khi ở những vị trí địa lý càng thuận lợi bao nhiêu thì hoạt động vận chuyển, giao nhận hàng hóa cũng như việc thu hút khách hàng sẽ càng tốt bấy nhiêu. Khi đó doanh nghiệp vừa tiết kiệm được chi phí vận chuyển vừa có thể tăng doanh thu bán hàng, từ đó tăng lợi nhuận, tăng thị phần và góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
IV. SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ.
1. Khái niệm hội nhập kinh tế quốc tế.
Hội nhập kinh tế quốc tế được hiểu đầy đủ là việc các quốc gia thực hiện mô hình kinh tế mở, tự giác thực hiện các cam kết quốc tế và tham gia vào các định chế kinh tế tài chính quốc tế, thực hiện tự do hóa và thuận lợi hóa thương mại, đầu tư bao gồm các lĩnh vực sau:
- Đàm phán cắt giảm thuế quan, tiến tới thực hiện thuế suất bằng không đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu.
- Giảm thiểu, tiến tới loại bỏ những hàng rào phi quan thuế gây cản trở đối với thương mại. Những biện pháp phi thuế phổ thông cần được chuẩn mực hóa theo các quy định chung của WTO hoặc theo các thông lệ quốc tế hoặc khu vực khác.
- Giảm thiểu các hạn chế đối với thương mại dịch vụ, tức là tự do hóa việc cung cấp và kinh doanh các hình thức dịch vụ từ dịch vụ tư vấn giáo dục, tin học cho đến các dịch vụ ngân hàng, tài chính, viễn thông…
- Giảm thiểu các hạn chế đối với đầu tư để mở đường cho tự do hóa hơn nữa trong lĩnh vực thương mại.
- Điều chỉnh chính sách quản lý thương mại theo những quy tắc và luật chơi chung quốc tế, đặc biệt là các vấn đề liên quan đến giao dịch thương mại như thủ tục hải quan, quyền sở hữu trí tuệ, chính sách cạnh tranh…
- Triển khai những hoạt động hợp tác kinh tế, văn hóa xã hội nhằm nâng cao năng lực của các nước trong quá trình hội nhập.
Như vậy có thể thấy, khái niệm hội nhập kinh tế quốc tế trong bối cảnh hiện nay không chỉ đơn thuần giới hạn trong phạm vi cắt giảm thuế quan mà đã được mở rộng ra tất cả các lĩnh vực liên quan đến chính sách kinh tế thương mại nhằm mục đích mở cửa thị trường cho hàng hóa và dịch vụ, loại bỏ các rào cản hữu hình và vô hình đối với trao đổi thương mại. Chính vì vậy mà hội nhập kinh tế quốc tế được coi là một xu hướng không tránh khỏi của bất kỳ quốc gia nào trên thế giới.
2. Cơ hội và thách thức đối với doanh nghiệp khi tham gia hội nhập kinh tế quốc tế.
Trong tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, nhận thức đầy đủ những cơ hội cũng như những thách thức là bước đi đầu tiên giúp doanh nghiệp chuẩn bị hành trang tri thức nhằm ứng phó kịp thời, hiệu quả với những khó khăn có thể gặp phải.
2.1. Cơ hội đối với các doanh nghiệp.
Cơ hội lớn nhất là mở rộng thị trường
Hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng tự do thương mại có khả năng tạo ra những cơ hội thị trường cho các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp có điều kiện tiếp cận với các thị trường tiềm năng lớn như Châu Âu, Bắc Mỹ, Nhật Bản…là những thị trường có khả năng tiêu thụ với số lượng lớn và khả năng thanh toán cao. Trên một thị trường mở, nếu như mảng thị phần lớn dễ thuộc về tay các doanh nghiệp lớn thì cũng luôn tồn tại cùng lúc những đoạn thị trường của các nhóm khách hàng nhỏ, các nhóm khách hàng ngách hình thành do sự khác biệt về sức mua, thói quen, tập quán và văn hóa tiêu dùng, cũng như một loạt các yếu tố khác gắn với đặc trưng nhu cầu của từng cá nhân khách hàng. Ngoài ra, cùng với những nhu cầu của các thị trường thì vẫn luôn có một khoảng trống thị trường được tạo ra bởi các đợt sóng của quá trình chuyển giao các thế hệ kỹ thuật, và đây có thể là thời điểm thuận lợi cho những người đi sau - những ngách thị trường sẽ là miền đất màu mỡ cho các doanh nghiệp trẻ.
Hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam được đối xử bình đẳng: nhờ đó mà sẽ cải thiện được sức cạnh tranh của hàng hóa cũng như của doanh nghiệp và quốc gia. Các hoạt động xuất nhập khẩu được mở rộng, kết quả là phát triển sản xuất trong nước, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập quốc dân và nâng cao đời sống nhân dân.
Môi trường kinh doanh và đầu tư được cải thiện
Các quốc gia và các doanh nghiệp có thêm nhiều điều kiện để tiếp nhận nguồn vốn quốc tế với nhiều hình thức đa dạng. Hiện nay, nguồn tài chính vẫn còn là điểm nóng đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Vì vậy, tận dụng được các nguồn vốn vay ưu đãi chính thức, vay thương mại, các nguồn viện trợ của nước ngoài,
hoặc qua con đường hợp tác liên doanh, liên kết, đầu tư trực tiếp nước ngoài, các chương trình dự án hỗ trợ phát triển là con đường lựa chọn thích hợp.
Tiếp cận nhanh chóng công nghệ, kỹ thuật tiên tiến hiện đại
Thông qua con đường chuyển giao công nghệ, rút ngắn những bước đi dò dẫm, giảm chi phí trong công tác nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng, thông qua nhiều con đường như liên doanh, liên kết, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, chuyển giao công nghệ… các doanh nghiệp Việt Nam có thể tiếp nhận nhanh chóng công nghệ, kỹ thuật hiện đại, nâng cao năng suất lao động, cải tiến chất lượng sản phẩm, bảo vệ thị trường nội địa và chủ động tham gia vào thị trường quốc tế.
Có điều kiện tham gia nhanh vào phân công lao động quốc tếtheo các dây chuyền sản xuất hoặc các công đoạn kinh doanh của các doanh nghiệp lớn. Với việc mở rộng quan hệ thương mại quốc tế, sự vận động của các yếu tố nguồn lực cũng bắt đầu mang tính chuyên môn hóa trên cấp độ quốc tế, và lao động cũng là một yếu tố quan trọng trong việc phân bổ các nguồn lực.
Có khả năng tiếp cận, học tập những kinh nghiệm và kỹ năng quản lý tiêntiến của thế giới:
Một trong những điều kiện để thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa là sự phát triển của công nghệ thông tin - viễn thông. Kết quả của hệ thống thông tin toàn cầu còn là điều kiện để nâng cao dân trí, mở rộng giao lưu giữa các dòng văn hóa, các dân tộc, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp xúc với một thế giới mở, nâng cao năng lực đổi mới và hiện đại hóa công tác quản lý, trao đổi những tri thức và kinh nghiệm đã được tìm tòi, đúc kết từ bao đời, hưởng thụ nền văn minh nhân loại, tiết kiệm thời gian và nguồn lực. Đồng thời xu thế cạnh tranh của nền kinh tế dựa trên trí tuệ cũng là cơ hội tiềm tàng có nhiều hứa hẹn đối với những nền kinh tế non trẻ.
2.2. Thách thức đối với các doanh nghiệp.
Việt Nam là một nước đang phát triển ở trình độ thấp, kinh tế thị trường mới còn đang ở giai đoạn phát triển sơ khai, các yếu tố cơ bản, đồng bộ của một thị trường chưa phát triển đầy đủ, doanh nghiệp và đội ngũ doanh nhân còn nhỏ bé, thực tế trên 90% doanh nghiệp Việt Nam là những doanh nghiệp có quy mô nhỏ và
vừa, vốn kinh doanh rất hạn chế trong khi phải trải rộng phạm vi kinh doanh cả trong và ngoài nước nên khó có khả năng đầu tư quy trình công nghệ hiện đại để tạo ra các sản phẩm có chất lượng cao, cạnh tranh với các sản phẩm ngoại có tiêu chuẩn chất lượng quốc tế. Tiềm lực vật chất nghèo nàn cũng dễ dẫn đến tâm lý “ăn xổi, ở thì” hạn chế tầm nhìn cho các chương trình phát triển chiến lược. Trình độ quản lý và kinh nghiệm hoạt động trên thị trường quốc tế của các doanh nghiệp Việt Nam còn yếu. Điều đó dẫn đến khả năng kinh doanh và cạnh tranh của các chủng loại hàng hóa, các chủng loại dịch vụ của từng doanh nghiệp còn rất yếu kém. Thị trường thế giới để hàng hóa ta tiêu thụ còn hạn hẹp. Có lúc có chỗ ta vừa chiếm lĩnh được, ta vừa đặt chân tới thì đã bị thôn tính. Trong bối cảnh quốc tế tự buôn bán, tự do đầu tư, chúng ta đang ở vào thế yếu, rất dễ trở thành nơi tiêu thụ hàng hóa cho nước ngoài.
Các đối thủ tiềm năng chính của doanh nghiệp Việt Nam là các nước ASEAN và Trung Quốc. Các nước ASEAN có lợi thế so sánh tuyệt đối và cơ cấu sản phẩm xuất sang các nước chủ yếu như Nhật và Mỹ cũng tương tự như Việt Nam, nhưng các nước đó lại có trình độ phát triển cao hơn Việt Nam khoảng 10 năm. Họ phát triển kinh tế thị trường sớm hơn, họ có lợi thế hơn trong xuất khẩu do đảm bảo hiệu quả kinh tế cao hơn và có uy tín hơn về nhãn mác. Các nước này đã chuyển từ xuất khẩu nguyên liệu thô sang các mặt hàng có giá trị gia tăng cao hơn như linh kiện điện tử, chíp, bộ nhớ. Trung Quốc cũng có thế mạnh hơn Việt Nam về giá nhân công rẻ và lực lượng lao động dồi dào. Đồng thời, những đối tác thương mại lớn nhất của Trung Quốc như Nhật, Mỹ, EU, Hồng Kông, ASEAN, Hàn Quốc, Đài Loan… cũng là những thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam. Trung Quốc đổi mới mở cửa trước Việt Nam nên có nhiều kinh nghiệm tiếp cận thị trường cạnh tranh quốc tế hơn hẳn Việt Nam.
Bên cạnh những khó khăn trên, chúng ta còn có những khó khăn về con người, về cơ chế chính sách và bộ máy quản lý. Hiện nay trong xã hội, trong Đảng, trong bộ máy Nhà nước vẫn còn nhiều nhận thức khác nhau về hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là nhận thức về mối quan hệ giữa hội nhập kinh tế quốc tế với bảo