GNP (do phần FDI ở đây thường lớn hơn là đầu tư của họ ra nước ngoài), điều quan trọng là ở chỗ quy mô GDP phản ánh rò hơn những khía cạnh khác nhau của môi trường kinh doanh và đặc biệt là cùng với cơ cấu GDP, cơ cấu lao động của nền kinh tế cũng được phản ánh rò ràng hơn.
Để đánh giá sát thực hơn sự chuyển dịch cơ cấu ngành của nền kinh tế trong quá trình đổi mới nền kinh tế theo hướng CNH-HĐH, việc phân tích cơ cấu các ngành (cấp II, cấp III…) có một ý nghĩa rất quan trọng. Thông thường, cơ cấu phân ngành phản ánh sát hơn khía cạnh chất lượng và mức độ hiện đại hóa của nền kinh tế.
Cơ cấu lao động đang làm việc trong nền kinh tế
Trong quá trình đổi mới nền kinh tế và thực hiện CNH - HĐH, sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế được đánh giá qua một chỉ tiêu rất quan trọng là cơ cấu lao động đang làm việc trong nền kinh tế được phân bố như thế nào vào các lĩnh vực sản xuất khác nhau. Các nhà kinh tế học đánh giá rất cao chỉ tiêu cơ cấu lực lượng lao động đang làm việc trong nền kinh tế, vì ở góc độ phân tích kinh tế vĩ mô, cơ cấu lao động xã hội mới là chỉ tiêu phản ánh sát thực nhất mức độ thành công về mặt kinh tế-xã hội của quá trình CNH
- HĐH. Bởi vì công nghiệp hóa, hiểu theo nghĩa đầy đủ của nó, không phải chỉ đơn thuần là sự gia tăng tỷ trọng giá trị của sản xuất công nghiệp, mà là cùng với mức đóng góp vào GDP ngày càng tăng của lĩnh vực công nghiệp (hiện nay, công nghiệp và dịch vụ dựa trên công nghệ kỹ thuật hiện đại), phải là quá trình CNH - HĐH đời sống xã hội con người, trong đó, cơ sở quan trọng nhất là số lượng lao động đang làm việc trong lĩnh vực phi nông nghiệp chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong tổng lực lượng lao động đang làm việc trong nền kinh tế.
Cơ cấu lao động phân theo ngành sở dĩ được các nhà kinh tế học đánh giá cao và coi trọng là do chỉ tiêu này không chỉ phản ánh xác thực hơn mức
độ chuyển biến xã hội công nghiệp của một đất nước, mà nó còn ít bị ảnh hưởng bởi các nhân tố ngoại lai hơn. Ở một số nền kinh tế, trong khi tỷ trọng lao động phi nông nghiệp (nhất là khu vực sản xuất công nghiệp) còn chiếm tỷ trọng nhỏ, nhưng trong cơ cấu GDP lại chiếm tỷ trọng lớn hơn nhiều. Lý giải cho hiện tượng này, các nhà kinh tế học đã chỉ ra tình trạng “méo mó” về giá cả, nhất là trong những trường hợp có sự chênh lệch giá cánh kéo lớn giữa sản phẩm công nghiệp và dịch vụ so với sản phẩm nông nghiệp. Vì thế, cơ cấu GDP giữa các ngành kinh tế đôi khi không phản ánh đúng thực trạng chuyển dịch cơ cấu của nền kinh tế.
Tầm quan trọng của chuyển dịch cơ cấu lao động thậm chí còn được một số kinh tế gia xem như chỉ tiêu quyết định nhất để đánh giá mức độ thành công của quá trình công nghiệp hóa trong nghiên cứu so sánh giữa các nền kinh tế. Chẳng hạn, Iungho Yoo (KDI School of Public Policy and Management, Korea) đã so sánh thời kỳ công nghiệp hóa giữa các nước dựa trên một tiêu chí duy nhất là coi trọng lao động nông nghiệp chiếm 50% tổng lao động xã hội và kết thúc khi tỷ trọng lao động nông nghiệp chỉ còn 20% tổng lao động xã hội.
Có thể bạn quan tâm!
- Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Bắc Ninh - 1
- Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Bắc Ninh - 2
- Khái Niệm, Ý Nghĩa Và Các Yếu Tố Ảnh Hưởng Tới Chuyển Dịch Cơ Cấu Ngành Kinh Tế
- Chuyển Dịch Cơ Cấu Ngành Kinh Tế Ở Tỉnh Vĩnh Phúc
- Bài Học Kinh Nghiệm Cho Quá Trình Chuyển Dịch Cơ Cấu Ngành Kinh Tế Ở Tỉnh Bắc Ninh
- Vai Trò Của Nhà Nước, Nhu Cầu Của Thị Trường Trong Từng Giai Đoạn Phát Triển.
Xem toàn bộ 134 trang tài liệu này.
Có thể còn có những tranh luận về điểm khởi đầu và điểm kết thúc của quá trình công nghiệp theo quan điểm này, nhưng cách tiếp cận ở đây là đã xuất phát từ chỉ tiêu chuyển dịch cơ cấu lao động trong mối tương quan giữa tỷ trọng lao động nông nghiệp và phi nông nghiệp để đánh giá tiến trình công nghiệp hóa.[37, tr.39-40].
Cơ cấu hàng xuất khẩu
Trong điều kiện đổi mới một nền kinh tế đang công nghiệp hóa, cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu cũng được xem như một trong những tiêu chí quan trọng đánh giá mức độ thành công của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Quy luật phổ biến của quá trình
công nghiệp hóa (đối với phần lớn các nước đang phát triển hiện nay) là xuất phát từ một nền kinh tế nông nghiệp, ở đó sản xuất nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu GDP và số lượng lao động làm nông nghiệp chiếm phần lớn nhất trong tổng lực lượng lao động xã hội và do đó, trong tổng giá trị xuất khẩu ít ỏi mà họ có được, một phần rất lớn là sản phẩm nông nghiệp hoặc sản phẩm của công nghiệp khai thác ở dạng nguyên liệu thô (chưa qua chế biến hoặc chỉ ở dạng sơ chế). Trong khi đó, nhu cầu nhập khẩu máy móc, thiết bị, công nghệ, nguyên vật liệu phục vụ quá trình phát triển công nghiệp lại rất lớn nên tình trạng khan hiếm và thiếu hụt ngoại tệ luôn là một điểm yếu mang tính kinh niên.
Hầu hết các nước đã trải qua quá trình công nghiệp hóa để trở thành một nước công nghiệp phát triển đều cơ bản trải qua một mô hình chung trong cơ cấu sản xuất và cơ cấu hàng xuất khẩu là: từ chỗ chủ yếu sản xuất và xuất khẩu hàng sơ chế sang các mặt hàng công nghiệp chế biến, lúc đầu là các loại sản phẩm của công nghiệp chế biến sử dụng nhiều lao động, kỹ thuật thấp như lắp ráp, sản phẩm dệt may, chế biến nông lâm thủy sản…chuyển dần sang các loại sản phẩm sử dụng nhiều công nghệ kỹ thuật cao như sản phẩm cơ khí chế tạo, hóa chất, điện tử, v.v…Chính vì vậy, sự chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu, từ những mặt hàng sơ chế sang những loại sản phẩm chế biến dựa trên cơ sở công nghệ - kỹ thuật cao luôn được xem như một trong những thước đo rất quan trọng đánh giá mức độ thành công của công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Hơn nữa, đối với nhiều nước chậm phát triển, do những chỉ số tiêu chuẩn kỹ thuật quốc gia nhiều khi thấp hơn tiêu chuẩn kỹ thuật quốc tế nên cơ cấu sản phẩm xuất khẩu (được thị trường quốc tế chấp nhận) sẽ là một tiêu chí tốt để bổ sung đánh giá kết quả của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Đồng thời, với cơ cấu giá trị của các sản phẩm xuất khẩu, cơ cấu nguồn lao động trực tiếp và gián tiếp tham gia vào chế tạo sản phẩm xuất khẩu cũng có ý nghĩa trong phân tích, đánh giá quá trình chuyển dịch cơ cấu nguồn lao động xã hội.
Tóm lại, khi phân tích và đánh giá quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, các nhà kinh tế học thường sử dụng các chỉ tiêu chủ yếu gồm cơ cấu GDP, cơ cấu lao động, cơ cấu hàng xuất khẩu để xem xét. Mức độ chi tiết, cụ thể và các khía cạnh tiếp cận của những phân tích này trước hết phụ thuộc vào yêu cầu mục tiêu cần đánh giá, vào nguồn tài liệu sẵn có và nhiều yếu tố khác. Mỗi tiêu chí nêu trên đều hàm chứa một ý nghĩa kinh tế nhất định trong phân tích quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của thời kỳ CNH-HĐH.
Một nhóm các chỉ tiêu khác góp phần đánh giá tính hiệu quả của cơ cấu kinh tế với tư cách là kết quả của cơ cấu phân bổ các nguồn lực xã hội, trước hết là cơ cấu đầu tư. Đó là các chỉ số về tốc độ tăng trưởng kinh tế, năng suất lao động xã hội, chỉ số ICOR, mức độ tiêu hao năng lượng trên mỗi đơn vị GDP được tạo ra, số chỗ việc làm mới được tạo ra, tỷ lệ thất nghiệp, tốc độ giảm nghèo…Những chỉ tiêu này vốn là những chỉ tiêu tổng hợp phân tích tình hình phát triển kinh tế của đất nước, nhưng trong một chừng mực nhất định, chúng góp phần đáng kể vào việc đánh giá tính hiệu quả của cơ cấu kinh tế đang được xây dựng của một nền kinh tế.[37, tr. 40-43].
1.2.2.2. Những nhân tố ảnh hưởng tới chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Như trên đã đề cập, chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế diễn ra dưới những tác động nhất định, bao gồm cả yếu tố khách quan và chủ quan. Vì thế, những nhân tố ảnh hưởng tới chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế bao gồm:
Điều kiện tự nhiên: tài nguyên thiên nhiên (khoáng sản, hải sản, lâm sản, nguồn nước...) phong phú và các điều kiện tự nhiên (khí hậu, thời tiết, bờ biển ...) thuận lợi tạo điều kiện phát triển các ngành công nghiệp, du lịch, ngư
nghiệp và nông nghiệp. Chính Các Mác đã viết: “Bất cứ một nền sản xuất xã hội nào cũng là việc con người chiếm hữu lấy những đối tượng tự nhiên trong phạm vi một hình thái xã hội nhất định”. Tuy vậy, việc khai thác các yếu tố này phục vụ phát triển và chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố chủ quan và khách quan. Thông thường ở mỗi giai đoạn phát triển, người ta tập trung khai thác tài nguyên có lợi thế, trữ lượng lớn, giá trị kinh tế cao, nhu cầu thị trường lớn và ổn định. Như vậy sự đa dạng, phong phú của tài nguyên thiên nhiên và các điều kiện tự nhiên có ảnh hưởng đến quá trình hình thành và chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, là nhân tố phải tính đến trong quá trình hoạch định chiến lược cơ cấu.
Dân số và lao động được xem là nguồn lực quan trọng cho phát triển kinh tế. Trong đó, kết cấu dân cư và trình độ dân trí, quy mô dân số và thu nhập của họ là những mặt tác động này lên quá trình hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Bên cạnh đó, sự phát triển của các ngành nghề truyền thống trong công nghiệp cũng như trong các ngành kinh tế khác thường gắn liền với tập quán, truyền thống, phong tục của một địa phương. Sản phẩm của các ngành nghề này hầu hết là các sản phẩm độc đáo, có ưu thế và được ưa chuông trên thị trường quốc tế. Sự phát triển và chuyển hoá các nghề này gắn chặt với đội ngũ các nghệ nhân. Vì vậy yếu tố này cũng ảnh hưởng đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của một địa phương.
Vị trí địa lý cũng là một yếu tố phải được xem xét khi hình thành cũng như định hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Yếu tố này trở nên quan trọng trong điều kiện xây dựng nền kinh tế mở, tăng cường mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế.
Tiến bộ khoa học - công nghệ không những chỉ tạo ra những khả năng sản xuất mới, đẩy nhanh tốc độ phát triển một số ngành làm tăng tỷ trọng của chúng trong tổng thể nền kinh tế (làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế) mà còn tạo
ra những nhu cầu mới, đòi hỏi sự xuất hiện một số ngành công nghiệp non trẻ công nghệ tiên tiến như: dầu khí, điện tử... do đó có triển vọng phát triển mạnh mẽ trong tương lai.
Trong điều kiện mở cửa và hội nhập, tiến bộ khoa học - công nghệ cho phép tạo ra các sản phẩm mới chất lượng cao, chi phí kinh doanh hạ, tạo ra sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Vì vậy sẽ thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung theo hướng xuất khẩu, thay thế nhập khẩu và hội nhập vào đời sống kinh tế khu vực và thế giới.
Vai trò của Nhà nước bao gồm đường lối chính sách, cơ chế quản lý, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ ảnh hưởng rất lớn đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế (dù là chuyển dịch theo hướng nào) thì Nhà nước đóng vai trò quyết định. Thứ nhất, Nhà nước xây dựng và quyết định chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội tổng thể của đất nước. Đó thực chất là các định hướng phát triển, định hướng phân bổ nguồn lực đầu tư theo ngành và theo vùng lãnh thổ. Thứ hai, bằng hệ thống pháp luật, chính sách... Nhà nước khuyến khích hay hạn chế, thậm chí gây áp lực để các doanh nghiệp, nhà đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh theo định hướng Nhà nước đã xác định.
Trong một quốc gia, sự đồng bộ và tính ổn định của môi trường thể chế có ý nghĩa quan trọng đối với quá trình hình thành và chuyển dịch cơ cấu ngành, cơ cấu thành phần kinh tế và cơ cấu lãnh thổ của nền kinh tế.
Xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế như quan hệ kinh tế đối ngoại và hợp tác phân công lao động quốc tế. Do sự khác nhau về điều kiện sản xuất ở trong nước, đòi hỏi phải có sự trao đổi kết quả lao động với bên ngoài ở mức độ và phạm vi khác nhau. Trong trao đổi quốc tế, mỗi nước, mỗi vùng đều phát huy lợi thế so sánh của mình trên cơ sở chuyên môn hoá vào các
ngành, lĩnh vực có chi phí tương đối thấp. Chính chuyên môn hoá đã thúc đẩy quá trình phân công lao động xã hội phát triển và kết quả là làm biến đổi cơ cấu ngành kinh tế. Rò ràng là bối cảnh toàn cầu hoá tạo cho nước ta nhiều cơ hội những cũng không ít thách thức. Vì thế, chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng hội nhập là phải vượt qua được những thách thức đó để tranh thủ được các cơ hội tạo lập nên một cơ cấu ngành kinh tế mới phù hợp, tiến bộ và hiệu quả hơn.
Trong điều kiện quốc tế hoá và khu vực hoá đời sống kinh tế hiện nay, cơ cấu ngành kinh tế của một nước còn chịu sự tác động của cơ cấu kinh tế các nước trong khu vực. Khái quát hoá tác động qua lại đó, các nhà kinh tế đã nêu lên một số đặc trưng quan trọng về biến đổi cơ cấu kinh tế theo kiếu làn sóng. Khi phân tích quá trình tăng trưởng kinh tế của Nhật Bản, dựa trên những số liệu thống kê dài hạn Kamane Akamatsu đã sử dụng thuật ngữ “ Đàn ngỗng trời bay” để mô tả sự nối tiếp tăng trưởng liên tục của các ngành trong cơ cấu kinh tế được xét cả về mặt số lượng lẫn chu kỳ biến thiên trong quá trình xuất nhập khẩu. Năm 1963, kết hợp với sự phân tích của Akamatsu với chu kỳ sản phẩm của Vesnon, Kojima đã đặt tên lại cho mô hình “Đàn ngỗng trời bay” là mô hình “Chu kỳ đuổi kịp sản phẩm”. Mô hình này phản ánh một thực tế sống động gọi là “Hiệu ứng chảy tràn” về cơ cấu kinh tế từ các quốc gia ở các nấc thang phát triển cao hơn sang quốc gia phát triển thấp hơn. Sự quan sát thực tế cho thấy khi Nhật bản khởi động và đạt được thành tích tăng trưởng rực rỡ vào thập niên 1950- 1960, bốn quốc gia hiện đã trở thành NICs đã tiếp theo đó bắt nhịp vào quá trình tăng trưởng vào thập niên 1960- 1970; đến thập kỷ 1970 và 1980 là một số nước thuộc ASEAN và từ thập niên 1980 đến nay “ Hiệu ứng chảy tràn” đang lan sang Trung Quốc và Việt Nam. Rò ràng đây là một quá trình tăng trưởng liên tục và diễn ra theo đúng kiểu “ làn sóng”.
Mức độ hoàn thiện của nền kinh tế thị trường cũng ảnh hưởng tới chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Bởi vậy sự hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường trong nước (thị trường hàng hoá - dịch vụ, thị trường vốn, thị trường lao động, thị trường khoa học - công nghệ...) có tác động mạnh đến sự hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Trong cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, Nhà nước tạo điều kiện phát triển đồng bộ, điều tiết các loại thị trường và tạo môi trường, điều kiện cho thị trường và các hoạt động sản xuất - kinh doanh thông qua các chính sách vĩ mô. Hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng nào phụ thuộc vào chiến lược và các định hướng phát triển của Nhà nước trong từng thời kỳ có tính đến các yếu tố trong bối cảnh mở cửa và hội nhập quốc tế.
1.3. Kinh nghiệm chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế tại một số địa phương ở nước ta giai đoạn từ 1997 đến nay
Hưng Yên và Vĩnh Phúc là hai tỉnh thuộc đồng bằng sông Hồng, nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Kể từ khi tái lập tỉnh (1/1/1997) đến nay, các địa phương này đã đạt được nhiều thành tựu trong phát triển kinh tế, đặc biệt là tỉnh Vĩnh Phúc. Tuy mỗi vùng có những đặc điểm riêng, nhưng việc tìm hiểu kinh nghiệm của nhau để rút ra bài học là vấn đề có ý nghĩa quan trọng trong phát triển kinh tế của mỗi địa phương, cũng như của Bắc Ninh.
Sau đây là những thành tựu cơ bản về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Hưng Yên và Vĩnh Phúc.
1.3.1. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở tỉnh Hưng Yên
Hưng Yên là một tỉnh thuộc đồng bằng sông Hồng, có vị trí địa lý thuận lợi, diện tích tự nhiên là 923,45 km2, dân số 1.156 nghìn người (năm 2007). Mật độ dân số của tỉnh là 1.252 người/km2, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên 9,36%/năm, tỉnh đã hoàn thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở vào năm