Một Số Mô Hình Lý Thuyết Về Chuyển Dịch Cơ Cấu Ngành Kinh Tế


lên lợi thế tuyệt đối trong phân công lao động quốc tế của các nền kinh tế. Song để thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì những nỗ lực chính sách hướng tới nâng cấp khoa học, công nghệ và kỹ thuật nhằm chuyển chúng từ nơi cùng cấp sản phẩm thô thành các sản phẩm của công nghiệp chế biến sẽ là một nội dung chủ chốt cần lưu ý.

- Nguồn lực con người

Nguồn nhân lực khi được xem xét dưới góc độ là yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất, từ lâu đã được coi như một nhân tố có ý nghĩa quyết định đối với quá trình sản xuất. Ở những thời điểm nhất định, việc phân bổ nguồn lực này như thế nào có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc hình thành cơ cấu ngành kinh tế của nền kinh tế. Để quyết định phân bổ nguồn nhân lực vào những ngành sản xuất khác nhau như thế nào cần lưu ý các khía cạnh sau:

Thứ nhất, quy mô nguồn nhân lực

Quy mô nguồn nhân lực là một trong những yếu tố quan trọng góp phần hình thành cơ cấu ngành kinh tế. Để cho các hoạt động sản xuất kinh doanh đạt được hiệu quả kinh tế theo quy mô trong những điều kiện về khoa học công nghệ nhất định, cần phải có một lượng lao động thích hợp. Đối với một số quốc gia, quy mô dân số và lao động nhỏ bé đã là một trong những nguyên nhân khó phát triển ở một số lĩnh vực. Ngược lại, khá nhiều quốc gia đang phát triển có hiện tượng "dư thừa" lao động. Vì vậy, hình thành một cơ cấu ngành kinh tế "toàn dụng lao động" lại là một trong những ưu tiên hàng đầu của họ. Ở góc độ kinh tế, quy mô nguồn nhân lực không chỉ phụ thuộc vào quy mô dân cư đang sinh sống trên một vùng lãnh thổ hay đơn vị hành chính nhất định, mà còn phụ thuộc vào độ cơ động của nguồn lao động, được quy định bởi tình trạng giao thông và mức độ linh hoạt của thị trường lao động.


Thứ hai, chất lượng nguồn nhân lực

Ngoài tố chất về sức khỏe, về phẩm chất và đạo đức (tính cần cù, siêng năng, yêu lao động, có tránh nhiệm trước công việc, có tự trọng cao về mặt xã hội, có kỷ luật lao động…), chất lượng lao động còn thể hiện ở trình độ tay nghề, kỹ năng lao động và kiến thức (bao gồm cả kiến thức chuyên môn và kiến thức xã hội cần thiết khác). Vì vậy, đối với nguồn nhân lực chất lượng lao động là quan trọng nhất để hình thành cơ cấu kinh tế, đặc biệt đối với những ngành, lĩnh vực đòi hỏi lao động qua đào tạo, tay nghề cao như một số lĩnh vực dịch vụ gắn liền với công nghệ hiện đại, những lĩnh vực công nghiệp cơ khí chế tạo, điện tử, hóa học… Về phần mình, chất lượng nguồn lao động lại là sản phẩm của quá trình giáo dục và đào tạo. Vì thế, các nhà kinh tế học đã chứng minh rằng đầu tư cho giáo dục là loại đầu tư trực tiếp cho sản xuất chứ không phải là đầu tư cho lĩnh vực xã hội, vốn chỉ được xem xét đến sau khi đã đầu tư cho các ngành sản xuất như trong hầu hết các báo cáo kinh tế cũng như cách phân loại thống kê học.

Thứ ba, xu hướng nhân khẩu học

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 117 trang tài liệu này.

Xu hướng biến động nhân khẩu học có ý nghĩa khá quan trọng đối với việc hình thành cơ cấu của nền kinh tế. Tác nhân này biểu hiện cả ở hai khía cạnh cung và cầu. Về mặt cung, xu hướng biến động dân số sẽ quyết định xu hướng biến động lực lượng lao động xã hội. Còn xu hướng biến động cầu sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới quy mô và cơ cấu cầu thị trường

- Nguồn vốn

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế tỉnh Điện Biên - 4

Quy mô nguồn vốn đầu tư là nhân tố kinh tế quan trọng luôn ảnh hưởng trực tiếp tới quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của mỗi quốc gia. Vồn luôn là vấn đề khó khăn của hầu hết các quốc gia đang phát triển đối với quá trình tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Ngày nay, quá trình toàn cầu hóa kinh tế đang diễn ra sâu rộng trên phạm vi toàn thế giới,


dòng vốn đầu tư mang tính chất toàn cầu đang gia tăng với tốc độ nhanh và quy mô lớn đã góp phần giải quyết bớt khó khăn này đối với các nước đang phát triển. Nhưng vấn đề thiếu vốn của các quốc gia này vẫn là vấn đề khó khăn dai dẳng. Vì vậy, việc xác định cơ cấu ngành kinh tế không thể không tính tới khả năng huy động vốn của nền kinh tế. Do hạn chế về quy mô và mức độ phân tán lớn, các doanh nghiệp sẽ tập trung đầu tư nhiều hơn vào những ngành cần ít vốn đầu tư, khả năng thu hồi vốn nhanh như thương mại bán lẻ quy mô nhỏ (tiểu thương), các ngành công nghiệp dệt may, sơ chế nông sản, cung cấp dịch vụ dân sinh thường nhật v.v…

Tuy nhiên, tác động của nhân tố vốn đến sự hình thành cơ cấu ngành kinh tế của những nền kinh tế đang phát triển trong thời đại ngày nay không chỉ đơn giản như vậy. Sự tác động của toàn cầu hóa và tính chất, mức độ can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế, trước hết thông qua chính sách đầu tư có một ý rất to lớn đối với sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Dòng vốn nước ngoài cùng với nguồn vốn trong nước chảy vào lĩnh vực kinh doanh cụ thể nào lại phụ thuộc phần lớn vào chính sách kinh tế của nhà nước. Ngoài nguồn vốn tư ngân sách của nhà nước trực tiếp đầu tư vào một số lĩnh vực, các chính sách khuyến khích hoặc không khuyến khích đầu tư vào một số lĩnh vực cũng góp phần đáng kể vào hướng dòng chảy của vốn vào những lĩnh vực, những ngành khác nhau.

1.2.2.3. Môi trường thể chế

Thể chế được hiểu là các ràng buộc do con người tạo ra nhằm quy định cấu trúc tương tác giữa người với người. Các thể chế chính trị -xã hội được thừa nhận có tác động đến quá trình phát triển của đất nước, đặc biệt thông qua tạo hành lang pháp lý và môi trường đầu tư. Vì nền tảng của kinh tế thị trường là dựa trên trao đổi giữa các cá nhân và các nhóm người với nhau, bởi vậy nếu không có thể chế thì các hoạt động này không thể diễn ra bời vì


người này không thể tương tác với người kia nếu không có chế tài nào đó ngăn cản người kia hành động tùy tiện và ngược lại với thỏa thuận. Các cá nhân và doanh nghiệp chỉ có thể mua, bán, thuê mướn hợp đồng, đầu tư nếu họ có một mức độ tin tưởng nhất định rằng các thỏa thuận hợp đồng của họ sẽ được thực hiện. Thông thường các cá nhân thường không đủ thông tin khi tham gia giao dịch. Do đó sẽ có các chi phí phát sinh gọi là chi phí giao dịch. Tất cả các chi phí này liên quan đến thể chế. Một thể chế không tốt sẽ làm cho chi phí thực thi các hợp đồng cao và như vậy sẽ không khuyến khích các giao dịch kinh tế. Hơn nữa, một cấu trúc thể chế tốt sẽ tạo ra sự khuyến khích nhất định, ảnh hưởng quyết định đến phân bổ nguồn lực con người tốt hay xấu cho tăng trưởng kinh tế. Theo tác giả Knack và Keefer ( 1995), để đánh giá chất lượng của thể chế có thể sử dụng bốn tiêu chí để đo lường: (1) Tham nhũng,

(2) Chất lượng bộ máy hành chính, (3) Tuân thủ pháp luật, và (4) Bảo vệ quyền tài sản.

Môi trường thể chế là yếu tố quyết định đến sự hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, trước hết là cơ cấu ngành kinh tế. Nó thường gắn bó chặt chẽ với thể chế chính trị, đường lối xây dựng kinh tế. Môi trường thể chế là biểu hiện cụ thể của từng quan điểm, ý tưởng và hành vi của nhà nước can thiệp, định hướng sự phát triển tổng thể cũng như sự phát triển của các bộ phận cấu thành của nền kinh tế thông qua các công cụ mà nhà nước ban hành, sử dụng như các chính sách kinh tế, hệ thống pháp luật…

Cơ chế chính sách có tác động rất mạnh mẽ đến xu hướng vận động tổng quát của sự hình thành cơ cấu và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cả cơ cấu ngành, cơ cấu vùng và cơ cấu thành phần kinh tế. Ví dụ trong một thời gian dài trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, xu hướng hình thành cơ cấu kinh tế tổng quát của Việt Nam là "ưu tiên phát triển công nghiệp nặng". Ở dạng cực đoan hơn là những chiến dịch như kiểu "nhà nhà làm gang thép" của Trung


Quốc hồi thập kỷ 60 - 70. Từ sự chỉ đạo này, phần lớn nhất nguồn lực của quốc gia Việt Nam trong thời kỳ dài cũng đã được dành cho phát triển lĩnh vực công nghiệp nặng. Một chủ trương khác vào đầu những năm 1980 là " ba chương trình kinh tế lớn: lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu". Cơ cấu kinh tế được điều chỉnh do các nguồn lực đã được phân bổ lại theo hướng ưu tiên hơn cho các chương trình kinh tế này.

1.2.2.4. Tiến bộ khoa học- công nghệ

Những thành tựu của cách mạng khoa học, kỹ thuật, đặc biệt sự bùng nổ của công nghệ thông tin tạo nên những bước nhảy vọt trong mọi lĩnh vực sản xuất, góp phần đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các nước, vì thông tin nhanh chóng làm cho sản xuất, kinh doanh được điều chỉnh nhanh nhạy, hợp lý hơn, dẫn đến cơ cấu sản xuất được thay đổi phù hợp hơn với thị trường và lợi ích của từng nước. Mặt khác, khi khoa học công nghệ phát triển sẽ làm xuất hiện nhiều ngành mới và thúc đẩy một số ngành phát triển mạnh mà trước đây chưa có điều kiện phát triển. Ví dụ những năm gần đây với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ thúc đẩy một số ngành công nghệ cao phát triển như điện tử, công nghiệp phần mềm, công nghiệp vật liệu mới… Khoa học công nghệ phát triển cũng cho phép khai thác một số nguồn tài nguyên mà trước đây không có khả năng khai thác hoặc không đạt hiệu quả kinh tế để khai thác, vì vậy cũng có tác động không nhỏ tới chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.

Tóm lại, quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế chịu tác động của nhiều nhân tố. Trong điều kiện hiện nay, dưới tác động của quá trình toàn cầu hóa, thị trường hóa và tiến bộ của khoa học công nghệ diễn ra nhanh chóng, bản thân các nhân tố đó cũng không ngừng biến đổi và hàm chứa những nội dung kinh tế không hoàn toàn giống nhau. Vì vậy, khi đánh giá tác động của từng nhân tố cũng như tác động tổng hợp của các nhân tố đó cần phải nhìn


nhận chúng như quá trình động để xem xét xu hướng tác động dài hạn lên quá trình chuyển dịch cơ cấu của ngành kinh tế.‌

1.3. Một số mô hình lý thuyết về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế

1.3.1. Phương thức thực hiện chuyển dịch cơ cấu ngành - Mô hình Rostow

Trong cuốn " Các giai đoạn phát triển kinh tế", nhà lịch sử kinh tế nổi tiếng người Mỹ, Walter W.Rostow đã đưa ra một cách tổng hợp theo lịch sử về những bước khởi đầu về quá trình phát triển kinh tế hiện đại ở 6 lục địa. Theo mô hình Rostow, quá trình phát triển kinh tế của mỗi quốc gia được chia thành 5 giai đoạn và ứng với mỗi giai đoạn là một dạng cơ cấu ngành kinh tế đặc trưng thể hiện bản chất phát triển của giai đoạn ấy.

Giai đoạn 1: Xã hội truyền thống

Đặc trưng cơ bản của giai đoạn này là: nền kinh tế thống trị bởi sản xuất nông nghiệp, năng suất lao động thấp do sản xuất chủ yếu bằng công cụ thủ công, tích lũy gần như con số không. Cơ cấu ngành kinh tế trong thời kỳ này vẫn là cơ cấu nông nghiệp thuần túy.

Giai đoạn 2: Giai đoạn chuẩn bị cất cánh

Trong giai đoạn này những hiểu biết về khoa học - kỹ thuật đã bắt đầu được tiến hành áp dụng vào sản xuất trong cả nông nghiệp và công nghiệp; giáo dục được mở rộng và có những cải tiến phù hợp với yêu cầu mới của sự phát triển; nhu cầu đầu tư tăng lên đã thúc đẩy sự hoạt động của ngân hàng và sự ra đời của các tổ chức huy động vốn. Tiếp đó giao lưu hàng hóa trong và ngoài nước phát triển đã thúc đẩy sự hoạt động của ngành giao thông vân tải, thông tin liên lạc. Cơ cấu ngành kinh tế trong giai đoạn này là cơ cấu nông - công nghiệp.

Giai đoạn 3: Giai đoạn cất cánh


Thuật ngữ này bao hàm ý một đất nước bước vào giai đoạn phát triển hiện đại và ổn định. Những yếu tố cơ bản đảm bảo cho sự cất cánh là: huy động được nguồn vốn đầu tư cần thiết, tỷ lệ cho tiết kiệm tăng lên ít nhất chiếm 10% trong thu nhập quốc dân thuần túy. Ngoài vốn đầu tư trong nước nguồn vốn đầu tư nước ngoài đóng vai trò quan trọng, khoa học, kỹ thuật tác động mạnh vào nông nghiệp, công nghiệp, công nghiệp giữ vai trò đầu tầu, có tốc độ tăng trưởng nhanh, đem lại lợi nhuận lớn, lợi nhuận lại được tái đầu tư phát triển sản xuất, thông qua nhu cầu thu hút công nhân, kích thích phát triển khu đô thị và các lĩnh vực dịch vụ. Cơ cấu ngành kinh tế của giai đoạn này là công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ.

Giai đoạn 4: giai đoạn trưởng thành

Đặc trưng cơ bản của giai đoạn này là tỷ lệ đầu tư tăng lên liên tục, cao tới 20% thu nhập quốc dân thuần túy; khoa học, kỹ thuật mới được ứng dụng trên toàn bộ các mặt hoạt động kinh tế; nhiều ngành công nghiệp mới, hiện đại phát triển; nông nghiệp được cơ giới hóa, đạt được năng suất lao động cao; nhu cầu nhập khẩu tăng mạnh, sự phát triển kinh tế trong nước hòa dòng vào thị trường quốc tế. Cơ cấu ngành kinh tế trong giai đoạn này là công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp.

Giai đoạn 5: giai đoạn tiêu dùng cao

Trong giai đoạn này có hai xu hướng cơ bản về kinh tế: thứ nhất, thu nhập bình quân đầu người tăng nhanh, dân cư giàu có dẫn đến sự gia tăng nhu cầu tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ tinh vi, cao cấp; thứ hai, cơ cấu lao động thay đổi theo hướng tăng tỷ lệ dân cư đô thị và lao động có tay nghề, có trình độ chuyên môn cao; cơ cấu ngành kinh tế trong giai đoạn này là dịch vụ - công nghiệp.

Mô hình của Rosow mặc dù còn nhiều hạn chế về cơ sở của sự phân đoạn trong phát triển kinh tế cũng như sự nhất quán về các đặc trưng của mỗi


giai đoạn so với thực tế, nhưng đứng trên góc độ mối quan hệ giữa chuyển dịch cơ cấu ngành với quá trình phát triển thì mô hình này đã chỉ ra một sự lựa chọn hợp lí về dạng cơ cấu ngành tương ứng với mỗi giai đoạn nhất định của mỗi quốc gia.

1.3.2. Mô hình hai khu vực của Arthus Lewis

Đặc trưng chủ yếu của mô hình này là phân chia nền kinh tế thành hai khu vực công nghiệp và nông nghiệp trong nền kinh tế nhị nguyên và nghiên cứu quá trình di chuyển lao động giữa hai khu vực. Khu vực nông nghiệp, ở mức độ tồn tại, có dư thừa lao động và lao động dư thừa này dần dần chuyển sang khu vực công nghiệp. Sự phát triển của khu vực công nghiệp quyết định mực độ tăng trưởng của nền kinh tế, phụ thuộc vào khả năng thu hút lao động dư thừa ở khu vực nông nghiệp tạo nên và khả năng đó lại phụ thuộc vào tốc độ tích lũy vốn của khu vực công nghiệp.

Như vậy, mô hình hai khu vực của Lewis xác định một hướng giải quyết mối quan hệ giữa công nghiệp và nông nghiệp trong quá trình thực hiện mục tiêu tăng trưởng và phát triển. Mô hình này xây dựng trên cơ sở khả năng dịch chuyển lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp theo khả năng tích lũy vốn của khu vực này. Mô hình chỉ ra rằng khi khu vực nông nghiệp có dư thừa lao động, tăng trưởng kinh tế được quyết định bởi khả năng tích lũy và đầu tư của khu vực công nghiệp.

Tuy nhiên, mô hình này cũng có những hạn chế đáng kể. Các giả định có thể không phù hợp với thực tế. Thứ nhất, mô hình giả định rằng tỷ lệ lao động thu hút từ khu vực nông nghiệp tương ứng với tỷ lệ vốn tích lũy của khu vực này. Thực tế, khi có vốn khu vực công nghiệp có thể đầu tư vào những ngành thâm dụng vốn hoăc tìm nơi đầu tư có lợi hơn ở nước ngoài, và như vậy ý nghĩa của việc giải quyết việc làm cho khu vực nông nghiệp không còn nữa. Thứ hai, mô hình giả định chỉ có khu vực nông thôn mới dư thừa lao

Xem tất cả 117 trang.

Ngày đăng: 20/07/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí