Các Tiêu Chí Phản Ánh Sự Chuyển Dịch Cơ Cấu Kinh Tế Ngành


Thứ ba, tiến bộ khoa học – công nghệ không những chỉ tạo ra những khả năng sản xuất mới, đẩy nhanh tốc độ phát triển của một số ngành làm tăng tỷ trọng của chúng trong tổng thể nền kinh tế, mà còn tạo ra những nhu cầu mới, đòi hỏi sự xuất hiện một số ngành mới. Tiến bộ khoa học – công nghệ cho phép tạo ra các sản phẩm mới có chất lượng cao, chi phí kinh doanh hạ, do đó có sức cạnh tranh mạnh trên thị trường.

Thứ tư, sự phát triển của các loại thị trường có ảnh hưởng trực tiếp đến việc hình thành và chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Bởi lẽ, thị trường là yếu tố hướng dẫn và điều tiết các hoạt động sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp. Mỗi doanh nghiệp phải hướng ra thị trường, xuất phát từ quan hệ cung – cầu hàng hóa trên thị trường để định hướng chiến lược và chính sách kinh doanh của mình. Sự hình thành và biến đổi nhiệm vụ sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp để thích ứng với các điều kiện của thị trường dẫn tới từng bước thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Bởi vậy, sự hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường (thị trường hàng hóa – dịch vụ, thị trường vốn, thị trường lao động, thị trường khoa học – công nghệ…) có tác động mạnh đến quá trình hình thành và chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.

Thứ năm, vốn đầu tư. Quy mô vốn đầu tư luôn là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành. Vốn để xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển khoa học công nghệ, phát triển giáo dục, đầu tư cho sản xuất trong các ngành kinh tế…giúp cơ cấu ngành kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tuy nhiên, đối với các nước đang và kém phát triển, tích lũy từ nội bộ nền kinh tế rất thấp, lượng vốn đầu tư nhỏ là rào cản quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện địa.

Nguồn vốn phục vụ cho quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế không chỉ được huy động từ trong nước mà còn được huy động từ nước


ngoài. Trong điều kiện tích lũy từ nội bộ nền kinh tế còn thấp thì các dòng vốn đầu tư từ nước ngoài là động lực mạnh mẽ, tạo ra cú huých lớn, thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành.

Vậy để đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành cẩn phải huy động tối đa các nguồn vốn trong nước bên cạnh đó cần thực hiện các biện pháp để thu hút vốn đầu tư nước ngoài.

Thứ sáu, vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế. Xu thế chính trị, xã hội trong khu vực và thế giới ảnh hưởng đến sự hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành vì sự biến động về chính trị, xã hội trong khu vực và trên thế giới sẽ tác động mạnh đến các hoạt động ngoại thương, thu hút vốn đầu tư, chuyển giao công nghệ…buộc mỗi quốc gia cũng phải điều chỉnh chiến lược phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, trong đó có chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, đảm bảo cho nền kinh tế ổn định và phát triển phù hợp với xu thế hợp tác quốc tế.

1.2.2.4. Các tiêu chí phản ánh sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 105 trang tài liệu này.


Thứ nhất, cơ cấu kinh tế ngành trong GDP

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở tỉnh Tuyên Quang - 4


Trong đánh giá quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành, cơ cấu GDP giữa các ngành kinh tế là một trong những chỉ tiêu quan trọng nhất phản ánh xu hướng vận động và mức độ thành công của công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tỷ lệ phần trăm GDP của các ngành cấp I (khu vực nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ) là một trong những tiêu chí đầu tiên thường được dùng để đánh giá quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành của nền kinh tế. Trong quá trình công nghiệp hóa, mối tương quan này có xu hướng chung là khu vực nông nghiệp có tỷ lệ ngày càng giảm, còn khu vực phi nông nghiệp (công nghiệp, dịch vụ) ngày càng tăng lên. Và trong điều kiện của khoa học - công nghệ


hiện đại, khu vực dịch vụ đang trở thành khu vực chiếm tỷ trọng cao nhất, sau đó là công nghiệp và cuối cùng là nông nghiệp.

Để đánh giá sát thực hơn sự chuyển dịch cơ cấu ngành của nền kinh tế việc phân tích cơ cấu các phân ngành (cấp II, cấp III) có ý nghĩa rất quan trọng. Thông thường, cơ cấu phân ngành phản ánh sát hơn khía cạnh chất lượng và mức độ hiện đại hóa của nền kinh tế. Ví dụ, trong khu vực công nghiệp, những ngành công nghiệp chế biến đòi hỏi tay nghề kỹ thuật cao, vốn lớn hay công nghệ hiện đại như cơ khí chế tạo, điện tử công nghiệp, dược phẩm, hóa mỹ phẩm… chiếm tỷ trọng cao sẽ chứng tỏ nền kinh tế đạt mức độ công nghiệp hóa, hiện đại hóa cao hơn so với những lĩnh vực công nghiệp khai khoáng, sơ chế nông sản, công nghiệp lắp ráp… Trong khu vực dịch vụ, những lĩnh vực dịch vụ chất lượng cao, gắn với công nghệ hiện đại như bảo hiểm, ngân hàng, tư vấn, viễn thông, hàng không… chiếm tỷ lệ cao sẽ rất khác với những lĩnh vực dịch vụ phục vụ sinh hoạt dân sự với công nghệ thủ công hoặc trình độ thấp, quy mô nhỏ lẻ.

Thứ hai, cơ cấu lao động đang làm việc trong nền kinh tế


Xét ở góc độ phân tích kinh tế vĩ mô, cơ cấu lao động xã hội mới là chỉ tiêu phản ánh sát thực nhất mức độ thành công về mặt kinh tế - xã hội của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Công nghiêp hóa, hiểu theo nghĩa đầy đủ của nó, không phải chỉ đơn thuần là sự gia tăng tỷ trọng giá trị của sản xuất công nghiệp, mà là cùng với mức đóng góp vào GDP ngày càng tăng của lĩnh vực công nghiệp (và hiện nay là công nghiệp và dịch vụ dựa trên công nghệ kỹ thuật hiện đại), phải là quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đời sống xã hội con người. Trong đó, cơ sở quan trọng nhất là số lượng lao động đang làm việc trong lĩnh vực phi nông nghiệp chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong tổng lực lượng lao động đang làm việc trong nền kinh tế.


So với cơ cấu GDP, cơ cấu lao động phân theo ngành được đánh giá cao và coi trọng là do chỉ tiêu này không chỉ phản ánh xác thực hơn mức độ chuyển biến sang xã hội công nghiệp của một đất nước, mà nó còn ít bị ảnh hưởng bởi các nhân tố ngoại lai hơn. Ở một số nền kinh tế, trong khi tỷ trọng lao động phi nông nghiệp (nhất là khu vực sản xuất công nghiệp) còn chiếm tỷ trọng nhỏ, nhưng trong cơ cấu GDP lại chiếm tỷ trọng lớn hơn nhiều.

Thứ ba, cơ cấu hàng xuất khẩu.


Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu cũng được xem như một trong những tiêu chí quan trọng đánh giá mức độ thành công của quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Quy luật phổ biến của quá trình công nghiệp hóa (đối với phần lớn các nước đang phát triển hiện nay) là xuất phát từ một nền kinh tế nông nghiệp, ở đó sản xuất nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu GDP và số lượng lao động làm nông nghiệp chiếm phần lớn nhất trong tổng lực lượng lao động xã hội. Và do đó, trong tổng giá trị xuất khẩu ít ỏi mà họ có được, một phần lớn là sản phẩm nông nghiệp hoặc sản phẩm của công nghiệp khai thác ở dạng nguyên liệu thô. Trong khi đó, nhu cầu nhập khẩu máy móc, thiết bị, công nghệ, nguyên vật liệu phục vụ quá trình phát triển công nghiệp lại rất lớn nên tình trạng khan hiếm và thiếu hụt ngoại tệ luôn là một điểm yếu mang tính kinh niên.

Hầu hết các nước đã trải qua quá trình công nghiệp hóa để trở thành một nước công nghiệp phát triển đều cơ bản trải qua một mô hình chung trong cơ cấu sản xuất và cơ cấu hàng xuất khẩu là: từ chỗ chủ yếu sản xuất và xuất khẩu hàng sơ chế sang các mặt hàng công nghiệp chế biến, lúc đầu là các loại sản phẩm của công nghiệp chế biến sử dụng nhiều lao động, kỹ thuật thấp như lắp ráp, sản phẩm dệt may, chế biến nông lâm thủy


sản…chuyển dần sang các loại sản phẩm sử dụng nhiều công nghệ kỹ thuật cao như sản phẩm cơ khí chế tạo, hóa chất, điện tử… Chính vì vậy, sự chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu, từ những mặt hàng sơ chế sang những loại sản phẩm chế biến dựa trên cơ sở công nghệ - kỹ thuật cao luôn được xem như một trong những thước đo rất quan trọng đánh giá mức độ thành công của chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.

1.2.3. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở một số địa phương và bài học kinh nghiệm cho tỉnh Tuyên Quang

1.2.3.1. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở tỉnh Vĩnh Phúc


Trong giai đoạn 2005 – 2010 tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân của tỉnh Vĩnh Phúc đạt 17,4%/năm, trong đó: Công nghiệp – xây dựng tăng 20%, dịch vụ tăng 19,5%; nông – lâm – thủy sản tăng 5,6%. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch mạnh theo hướng tăng tỉ trọng công nghiệp – xây dựng, dịch vụ, giảm tỷ trọng nông – lâm – thủy sản. Năm 2010 giá trị công nghiệp – xây dựng chiếm 56%; dịch vụ chiếm 30%, nông – lâm nghiệp – thủy sản chiếm 14%. GDP bình quân đầu người năm 2013 đạt 31 triệu đồng, tương đương 1630 USD, gấp 3,45 lần so với năm 2005. Đạt được những kết quả trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên, toàn tỉnh đã tập trung phát triển kinh tế về các lĩnh vực như sau:

Trong lĩnh vực nông nghiệp được đặc biệt quan tâm: Xây dựng, ban hành nhiều cơ chế, chính sách mỡi hỗ trợ nông dân, huy động các nguồn lực đầu tư cho khu vực nông nghiệp, nông thôn, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới. Tỷ trọng ngành nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế trong 5 năm từ 2006-2010 giảm từ 16,7% xuống còn 13,7%.


Trong lĩnh vực công nghiệp đã khẳng định vai trò nền tảng của nền kinh tế: Giá trị tăng thêm ngành công nghiệp – xây dựng bình quân đạt 20%/năm, riêng công nghiệp tăng 20,6%/năm. Giá trị sản xuất công nghiệp 5 năm 2006-2010 đạt trên 154 nghìn tỷ đồng (tính theo giá cố định 1994), gấp hơn 3 lần giai đoạn 2001-2005. Nhiều khu, cụm công nghiệp mới được hình thành. Một số ngành công nghiệp chủ lực (ô tô, xe máy, gạch ốp lát…), công nghiệp có lợi thế so sánh phát triển nhanh, bước đầu phát triển một sô ngành công nghiệp công nghệ cao. Các ngành công nghiệp phụ trợ bước đầu phát triển. Tiểu thủ công nghiệp, các làng nghề truyền thống được quan tâm quy hoạch, đầu tư khôi phục, phát triển.

Trong lĩnh vực dịch vụ phát triển mạnh, nhiều ngành có mức tăng trưởng khá. Đã hình thành một số loại hình dịch vụ chất lượng cao, từng bước đáp ứng nhu cầu sản xuất và đời sống. Hoạt động thương mại, dịch vụ vận tải, du lịch bưu chính viễn thông, ngân hàng phát triển mạnh.

Để đạt được những kết quả trên, tỉnh Vĩnh Phúc đã thực hiện việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa tập trung vào các giải pháp huy động vốn để chi cho đầu tư, phát triển và đảm bảo an sinh xã hội; đẩy mạnh xuất khẩu; tập trung và có những giải pháp hữu hiệu để thu hút đầu tư; đẩy nhanh và làm tốt công tác quy hoạch các khu, cụm công nghiệp.

Mặt khác, tuy tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức cao, nhưng tính bền vững chưa cao; chất lượng tăng trưởng và khả năng cạnh tranh của một số sản phẩm, nhất là sản phẩm công nghiệp và sản phẩm của các doanh nghiệp địa phương còn thấp. Sản phẩm chưa đa dạng, trong đó sản phẩm chủ lực còn ít. Cơ cấu kinh tế ngành, cơ cấu thành phần kinh tế, cơ cấu sản phẩm còn chưa hợp lý, ảnh hưởng đến tính ổn định, bền vững của nền kinh tế. Tỷ trọng sản


phẩm có hàm lượng công nghệ cao còn thấp. Thu hút đầu tư còn chậm so với tiềm năng. Tiểu thủ công nghiệp, các doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển còn chậm và chưa được quan tâm đúng mức. Phát triển dịch vụ, du lịch chưa tương xứng với tiềm năng, trong đó du lịch chưa trở thành kinh tế ngành mũi nhọn; thiếu nhiều cơ sở dịch vụ có chất lượng cao; hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật còn thiếu, chưa đồng bộ và còn nhiều bất cập.

1.2.3.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở tỉnh Thái Nguyên


Ngành công nghiệp được chú trọng phát triển dựa trên thế mạnh về nguồn tài nguyên khoáng sản rất đa dạng, phong phú. Sự phong phú về tài nguyên khoáng sản trong đó gồm nhiều loại có ý nghĩa trong cả nước như sắt, than (đặc biệt là than mỡ) đã tạo cho Thái Nguyên một lợi thế so sánh lớn trong việc phát triển ngành công nghiệp luyện kim, khai khoáng.

Ngành công nghiệp tỉnh có những chuyển biến tích cực, tốc độ tăng trưởng nhanh qua các năm, tỷ trọng ngành công nghiệp - xây dựng trong GDP của tỉnh sau khi giảm từ 33,23% (năm 1996) xuống 30,4% (năm 2000) đã tăng nhanh trong các giai đoạn sau, lên 34,6% (năm 2001), 38,6% (năm 2005) và 41,8% (năm 2011). Nhiều khu công nghiệp tập trung và cụm công nghiệp vừa và nhỏ được đầu tư xây dựng ở các địa phương; nhiều dự án sản xuất công nghiệp đã và đang được triển khai, góp phần chuyển dịch nhanh cơ cấu ngành kinh tế của tỉnh.

Ngành nông - lâm - thuỷ sản mặc dù vẫn tăng trưởng đều đặn qua các năm nhưng tỷ trọng của ngành trong GDP của tỉnh có sự suy giảm. Các sản phẩm do nền kinh tế tỉnh tạo ra ngày càng hướng vào đáp ứng nhu cầu của thị trường (cả tiêu dùng trong nội bộ tỉnh và xuất khẩu). Một số ngành, sản phẩm mũi nhọn có sự phát triển tương đối nhanh, vững chắc, quy mô ngày càng


tăng. sản xuất nông, lâm nghiệp của tỉnh chuyển biến mạnh và vững chắc. Từ chỗ còn thiếu lương thực, đến nay tỉnh đã bảo đảm được an ninh lương thực trên địa bàn, sản lượng lương thực năm 2011 đạt gần 45 vạn tấn; hình thành các vùng sản xuất chuyên canh cây chè - cây công nghiệp mũi nhọn gắn với công nghiệp chế biến. Hiện nay, tỉnh đang tích cực chỉ đạo và đầu tư để đẩy nhanh tiến độ thực hiện quy hoạch xây dựng xã nông thôn mới.

Ngành dịch vụ tỉnh cũng tăng trưởng mạnh, tỷ trọng ngành dịch vụ trong tổng GDP cải thiện đáng kể, từ năm 2005 chiếm 34,8% đến năm 2011 chiếm 37% GDP của tỉnh.

Nội bộ từng ngành kinh tế của tỉnh Thái Nguyên cũng có sự chuyển dịch tương đối phù hợp với đường lối phát triển của tỉnh:

Trong ngành công nghiệp, các phân ngành mà tỉnh có lợi thế phát triển như: Công nghiệp khai thác và chế biến khoáng sản, công nghiệp chế biến lương thực thực thực phẩm, công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp. Công nghệ sử dụng trong các ngành công nghiệp chế biến ngày càng được hiện đại.

Ngành nông nghiệp là ngành thể hiện rò nét nhất xu hướng chuyển dịch từ nền kinh tế tự cấp tự túc sang nền kinh tế hàng hoá. Trong cơ cấu nội bộ ngành, tỷ trọng ngành chăn nuôi tăng lên trong khi tỷ trọng ngành trồng trọt giảm dần qua các năm. Sản xuất lương thực đáp ứng được mục tiêu bảo đảm an ninh lương thực, đồng thời hình thành và phát triển được những vùng lúa đặc sản hàng hoá. Diện tích trồng lúa trong tỉnh giảm đi nhưng sản lượng lúa vẫn liên tục tăng do năng suất tăng lên. Diện tích trồng rau, đậu tăng nhanh. Các sản phẩm chăn nuôi ngày càng hướng vào đáp ứng nhu cầu đa dạng của thị trường.

Xem tất cả 105 trang.

Ngày đăng: 20/07/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí