Khái Niệm, Ý Nghĩa Và Các Yếu Tố Ảnh Hưởng Tới Chuyển Dịch Cơ Cấu Ngành Kinh Tế


Cơ cấu ngành kinh tế hình thành trên cơ sở phân công lao động xã hội và chuyên môn hoá sản xuất. Do đó, nó phản ánh phần nào trình độ sản xuất và phân công lao động xã hội của một quốc gia.

Nghiên cứu các loại cơ cấu kinh tế nhằm tìm ra cách thức duy trì tính hợp lý của chúng và những lĩnh vực cần ưu tiên tập trung cao nguồn lực có hạn của mỗi quốc gia trong mỗi thời kỳ. Từ đó thúc đẩy sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế quốc dân một cách nhanh chóng nhất, có hiệu quả nhất.

1.1.2.2. Phân loại cơ cấu ngành kinh tế

Có nhiều cách phân loại các ngành hợp thành trong cơ cấu ngành kinh tế. Tuy nhiên, căn cứ vào phân ngành của Tổng cục Thống kê Việt Nam, có thể nhìn nhận nền kinh tế nước ta là tổng hòa của ba nhóm ngành sau:

Nhóm ngành nông, lâm, ngư nghiệp (ngành nông nghiệp), gồm các ngành trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp và ngư nghiệp; Nhóm ngành công nghiệp và xây dựng (ngành công nghiệp), gồm các ngành công nghiệp chế biến, công nghiệp khai thác, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và xuất khẩu, công nghiệp lọc dầu, ngành xây dựng; Nhóm ngành dịch vụ gồm các ngành thương mại, du lịch, giao thông vận tải, tài chính ngân hàng, bưu điện và các ngành dịch vụ khác.

Cơ cấu theo hai nhóm ngành dựa trên phương thức, công nghệ sản xuất: nông nghiệp và phi nông nghiệp. Việc phân chia cơ cấu kinh tế thành hai nhóm ngành này để quan sát trình độ của cơ cấu, yếu tố quan trọng để thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế. Khi phân tích theo hai nhóm ngành này, chúng ta cần quan sát phương thức, công nghệ tạo ra sản phẩm. Khi nhóm ngành phi nông nghiệp càng phát triển và chiếm tỷ trọng càng lớn thì nền kinh tế càng phát triển ở trình độ cao. Nhóm ngành nông nghiệp gồm các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp; nhóm ngành phi nông nghiệp gồm các ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ. Đối với các nước đang phát triển thì việc xem xét cơ cấu ngành kinh tế theo kiểu này có ý nghĩa to lớn. Việc chuyển dân cư nông thôn sang sống tại các đô thị và


chuyển lao động nông nghiệp sang làm việc trong các khu vực phi nông nghiệp là vấn đề có tính quy luật tiến tới sự hiện đại; sự chuyển động này đến một mức đô nào đó thì nền kinh tế được coi là phát triển. Ở các nước đang phát triển, các ngành nông nghiệp thường chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế; khi đó công nghệ của nền kinh tế không cao.[30, tr.100].

Căn cứ vào phương thức sản xuất, người ta còn chia các ngành thành hai nhóm sau đây:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 134 trang tài liệu này.

- Cơ cấu giữa các doanh nghiệp theo quy mô. Tức là, cơ cấu giữa doanh nghiệp quy mô nhỏ, vừa và doanh nghiệp quy mô lớn. Trong điều kiện kinh tế thị trường, doanh nghiệp nhỏ và vừa ứng nhạy nhanh, kịp thời với những biến động kinh tế trong một quốc gia hay trên phạm vi toàn thế giới. Nhờ đó, có thể giảm thiểu tổn thất cho đầu tư và cho sản xuất. Mặt khác, một vấn đề quan trọng cần chú ý trong bối cảnh toàn cầu hoá là luôn tồn tại sự cạnh tranh khốc liệt. Những tập đoàn kinh tế lớn mạnh có điều kiện cạnh tranh tốt hơn. Vì thế, bên cạnh việc khuyến khích phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa, cần đặc biệt chú ý tạo dựng những tập đoàn kinh tế lớn.

- Cơ cấu giữa các doanh nghiệp có công nghệ trình độ cao với các doanh nghiệp có công nghệ trình độ trung bình. Dù hiển nhiên những doanh nghiệp có công nghệ cao sẽ quyết định sự phát triển của cơ cấu kinh tế, nhưng trong khi lao động cần việc làm có số lượng lớn và lực lượng lao động có chất lượng không cao thì việc phát triển các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động vô cùng cần thiết. Nó không chỉ góp phần giải quyết việc làm mà còn có ý nghĩa toàn dụng lao động để tăng trưởng kinh tế.

Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Bắc Ninh - 3

Cơ cấu theo hai nhóm ngành dựa vào tính chất sản phẩm cuối cùng: nhóm ngành sản xuất sản phẩm vật chất và nhóm ngành sản xuất sản phẩm dịch vụ. Việc phân chia cơ cấu kinh tế theo hai nhóm ngành này nhằm nghiên cứu về mức độ hài hoà giữa các ngành trong nền kinh tế quốc dân. Trong quá trình CNH-HĐH


nền kinh tế không thể không quan sát quan hệ giữa hai khối ngành này. Dịch vụ phát triển được coi như làm “trơn tru” các quá trình sản xuất kinh doanh. Nếu khu vực sản xuất phát triển mà khu vực dịch vụ không phát triển thì sản xuất cũng sẽ bị ngưng trệ. Sự hài hoà giữa hai khối ngành này là rất cần thiết. Nếu xét theo hành vi tăng trưởng (hành vi tham gia tăng trưởng) thì các ngành sản xuất ra các sản phẩm dịch vụ có quan hệ khăng khít với nhau theo một tương quan nhất định. Đặc trưng tiêu biểu nhất là các ngành dịch vụ phải tăng nhanh hơn các ngành sản xuất vật chất. [30, tr.101].

Khi xem xét cơ cấu ngành kinh tế, chúng ta cũng phải chú ý đến tỷ trọng hay mức đóng góp của các sản phẩm chủ lực cho nền kinh tế, cũng như của các sản phẩm chứa hàm lượng công nghệ cao, hàm lượng chất xám cao. Nếu như các sản phẩm này chiếm tỷ trọng càng lớn thì nền kinh tế càng tốt và ngược lại. Một nền kinh tế được xem là phát triển phải có các ngành chế tạo chiếm tỷ trọng lớn trong GDP (trên 30%). Mặt khác, phải chú ý đến cơ cấu nội bộ của các ngành kinh tế. Tính hợp lý trong nội bộ của các ngành và cơ cấu ngành kinh tế sẽ đảm bảo tính hiệu quả cho sự phát triển nền kinh tế.

Nghiên cứu cơ cấu giữa hai nhóm ngành sản xuất vật chất và khối sản xuất sản phẩm dịch vụ nhằm phát huy toàn diện, đầy đủ quan hệ giữa chúng làm cho nền kinh tế có sức mạnh tổng hợp, phát triển cân đối, hài hoà giữa các mặt, giữa đầu vào và đầu ra. Cơ cấu ngành kinh tế quốc dân luôn vận động và phát triển, việc phân tích và đưa ra hướng điều chỉnh cơ cấu ngành kinh tế thích hợp trong quá trình đổi mới và thực hiện CNH - HĐH là vấn đề hết sức cần thiết.‌

1.2. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế

1.2.1. Khái niệm, ý nghĩa và các yếu tố ảnh hưởng tới chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế

1.2.1.1. Khái niệm chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế


Quá trình phát triển kinh tế, đồng thời cũng là quá trình làm thay đổi cơ cấu kinh tế (trong đó có cơ cấu ngành kinh tế) cả về tỷ lệ, số lượng và chất lượng. Sự ổn định của cơ cấu kinh tế chỉ là tương đối, nó thường xuyên ở trạng thái vận động và biến đổi không ngừng. Sự biến đổi ấy phụ thuộc vào cả những điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan, như: điều kiện tự nhiên, khoa học công nghệ, trình độ phân công lao động xã hội, sự liên kết hợp tác kinh tế và nhân tố chủ quan của nhà nước… Trong đó có nhân tố quan trọng và dễ dàng nhìn nhận thấy đó là quá trình chuyên môn hoá trong phạm vi quốc gia và mở rộng chuyên môn hoá quốc tế, thay đổi công nghệ, tiến bộ kỹ thuật. Chuyên môn hoá mở đường cho việc trang bị kỹ thuật hiện đại, áp dụng công nghệ tiên tiến, hoàn thiện tổ chức, nâng cao năng suất lao động xã hội. Bên cạnh đó, tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ lại thúc đẩy quá trình chuyên môn hoá. Điều đó làm cho tỷ trọng các ngành truyền thống giảm đi, tỷ trọng các ngành dịch vụ kỹ thuật mới tăng lên nhanh chóng và dần dần chiếm ưu thế. Phân công lao động và sự tiến bộ kỹ thuật, công nghệ ngày càng phát triển sâu sắc tạo ra những tiền đề cho việc phát triển các yếu tố sản xuất. Và ngược lại, việc phát triển thị trường các yếu tố sản xuất lại thúc đẩy quá trình phát triển, tăng trưởng kinh tế và do vậy làm sâu sắc thêm quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.[27, tr.13-14].

Thực chất của quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là sự phát triển không đồng đều giữa các ngành. Ngành có tốc độ phát triển cao hơn tốc độ phát triển chung của nền kinh tế thì sẽ tăng tỷ trọng và ngược lại, ngành có tốc độ phát triển thấp hơn sẽ giảm tỷ trọng. Nếu tất cả các ngành có cùng một tốc độ tăng trưởng thì tỷ trọng các ngành sẽ không đổi, nghĩa là không có chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.

Do vậy có thể hiểu chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là sự thay đổi cả về vị trí, vai trò, số lượng và chất lượng của các yếu tố, bộ phận hợp thành


các ngành kinh tế đã có sao cho phù hợp với điều kiện tự nhiên, lịch sử, kinh tế và xã hội của một nước.

Mục tiêu của sự chuyển dịch là đạt được sự hài hòa, hợp lý giữa các bộ phận trong một chỉnh thể thống nhất của nền kinh tế quốc dân hay của khu vực nào đó. Một cơ cấu kinh tế hợp lý phải phản ánh được sự tác động của quy luật khách quan và phù hợp với các quy luật phát triển khách quan đó. Trên cơ sở nhận thức sâu sắc các quy luật ấy, người ta phân tích và đánh giá những xu thế phát triển để tìm ra phương án thay đổi cơ cấu có hiệu lực nhất trong từng điều kiện cụ thể.

Ngày nay, kinh tế học phát triển coi chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một trong những nội dung trụ cột phản ánh mức độ phát triển của nền kinh tế. Sự khẳng định này là bước tiến quan trọng trong lí luận nhận thức và tư duy chính sách kinh tế. Thực tế, những quốc gia đạt mức độ tăng trưởng kinh tế cao nhưng cơ cấu của nền kinh tế vẫn ít có sự thay đổi, thậm chí có sự tách rời giữa khu vực sản xuất công nghiệp hiện đại với các khu vực nông nghiệp lạc hậu; vì vậy, khu vực nông nghiệp với đông đảo nông dân nghèo khó vẫn không chia sẻ những thành quả của tăng trưởng kinh tế.

Trong quá trình phát triển, tỉ trọng của khu vực công nghiệp và dịch vụ trong GDP tăng, nhất là công nghiệp chế biến trong khi tỉ trọng của nông nghiệp trong GDP giảm. Sự thay đổi cơ cấu ngành kinh tế phản ánh mức độ thay đổi của phương thức sản xuất theo hướng ngày càng hiện đại, những khu vực có năng suất lao động cao, giá trị gia tăng lớn có tốc độ phát triển cao hơn và thay thế những khu vực sản xuất kinh doanh có năng suất lao động và giá trị gia tăng thấp. Đặc biệt, một vài thập kỉ gần đây, sự phát triển của khu vực dịch vụ được xem là một trong những đặc trưng mới của xu hướng phát triển thế giới nên cách tiếp cận vấn đề cơ cấu và chuyển dịch cơ cấu trong quá trình phát triển nền kinh tế có những thay đổi.


Tuy nhiên, phải lưu ý đến tính khách quan của chuyển dịch cơ cấu kinh tế mang tính qui luật thông qua các xu hướng dưới đây:

- Xu hướng chuyển dịch cơ cấu của kinh tế tự nhiên sang kinh tế hàng hóa, tức là từ một nền kinh tế có kết cấu giản đơn sang nền kinh tế có mối quan hệ phức tạp và ở một trình độ cao hơn. Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, việc tận dụng, khai thác lợi thế so sánh và lợi thế tuyệt đối, tranh thủ sự phân công lao động quốc tế để chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng này được nhiều quốc gia chọn lựa.

- Xu hướng tăng tỷ trọng giá trị sản xuất và lao động trong công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp. Nguyên nhân là do chi tiêu cho các loại hàng hóa thiết yếu sẽ giảm khi thu nhập tăng. Do vậy, nhu cầu về sản phẩm công nghiệp và dịch vụ sẽ phát triển nhanh hơn nhu cầu về sản phẩm nông nghiệp. Mặt khác, do đặc tính sinh học của cây trồng, vật nuôi và đất canh tác có tác hại nên nông nghiệp phát triển chậm hơn công nghiệp và dịch vụ.

- Xu hướng đa dạng hóa sản phẩm để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của con người luôn tịnh tiến cùng với thu nhập. Chính quy luật thị trường và lợi ích là động lực tác động đến sản xuất, làm cho sản xuất phát triển nhanh theo xu hướng đa dạng hóa sản phẩm.

Như vậy, chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn liền với sự biến đổi không ngừng của các yếu tố, bộ phận và những quan hệ hợp thành của nền kinh tế quốc dân. Nó là một quá trình tất yếu của một quốc gia, đặc biệt là sự phát triển trong quá trình hội nhập nền kinh tế toàn cầu hiện nay.

1.2.1.2. Vai trò của chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế

Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế do yêu cầu của CNH-HĐH. Đảng ta đã xác định: “Công nghiệp hoá là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động kinh tế-xã hội từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với phương tiện và phương pháp


tiên tiến, hiện đại tạo ra năng suất lao động cao. Đối với nước ta đó là một quá trình thực hiện chiến lược phát triển kinh tế, xã hội nhằm cải biến một xã hội nông nghiệp lạc hậu thành một xã hội công nghiệp gắn với việc hình thành từng bước quan hệ sản xuất tiến bộ, ngày càng thể hiện đầy đủ hơn bản chất của chế độ mới".[15].

Trong điều kiện nước ta, ngành nông nghiệp còn chiếm tỷ trọng lớn trong GDP, GDP bình quân đầu người còn thấp so với trung bình của thế giới. Để thoát khỏi tình trạng lạc hậu kém phát triển, việc tiến hành CNH-HĐH đất nước là vấn đề quan trọng hàng đầu. Theo một chuyên gia kinh tế của Ngân hàng thế giới - Tatyana P.Soubbotina: “Công nghiệp hoá là giai đoạn phát triển kinh tế của một nước, trong đó công nghiệp tăng trưởng nhanh hơn nông nghiệp và dần dần đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế”.[44]. Vì thế, vai trò hết sức to lớn của chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là nhằm khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn lực để tìm ra các ngành kinh tế mũi nhọn, thiết lập mối quan hệ chặt chẽ giữa các ngành kinh tế trong tổng thể nền kinh tế để tạo đà cùng nhau phát triển.

Ngày nay, xu hướng hội nhập nền kinh tế thế giới đang diễn ra mạnh mẽ, chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế giúp các quốc gia có thể phát huy được lợi thế so sánh của mình, có điều kiện tiếp thu trình độ khoa học - công nghệ tiên tiến nhằm nâng cao tính hiệu quả và mở rộng hơn quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế trên mọi lĩnh vực.

1.2.2. Những chỉ tiêu và nhân tố ảnh hưởng tới chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế

1.2.2.1. Những chỉ tiêu phản ánh chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế

Cơ cấu kinh tế phản ánh cả về lượng lẫn về chất mối tương quan tỷ lệ giữa các bộ phận hợp thành của nền kinh tế. Khi đánh giá quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cần chú ý cả những quan hệ tỷ lệ về mặt lượng cũng như


phân tích sự thay đổi về chất (theo quan điểm lượng đổi chất đổi) của các mối tương quan ấy. Hơn nữa, trong quá trình phân tích, đánh giá, không thể không chú ý tới những đặc điểm riêng của mỗi loại cơ cấu kinh tế (và cả cơ cấu kinh tế theo lãnh thổ, cơ cấu các thành phần kinh tế…). Những chỉ tiêu phản ánh chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế bao gồm:

Cơ cấu GDP

Một trong những thước đo khái quát nhất để đo lường, đánh giá về tốc độ tăng trưởng, trạng thái và xu hướng chuyển dịch cơ cấu của nền kinh tế đó là chỉ tiêu GDP. Mặc dù còn có những hạn chế nhất định nhưng trong khoa học kinh tế hiện đại, chỉ tiêu này vẫn được sử dụng khá phổ biến.

Trong đánh giá quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu GDP giữa các ngành kinh tế là một trong những chỉ tiêu quan trọng nhất phản ánh xu hướng vận động và mức độ thành công của công nghiệp hóa. Tỷ lệ phần trăm GDP của các ngành cấp I (khu vực nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ) là một trong những tiêu chí đầu tiên thường được dùng để đánh giá quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành của nền kinh tế. Trong quá trình đổi mới nền kinh tế và thực hiện công nghiệp hóa, mối tương quan này có xu hướng chung là khu vực nông nghiệp có tỷ lệ ngày càng giảm, còn khu vực phi nông nghiệp (công nghiệp và dịch vụ) ngày càng tăng lên. Và trong điều kiện của khoa học công nghệ hiện đại, khu vực dịch vụ đang trở thành khu vực chiếm tỷ trọng cao nhất, sau đó là công nghiệp và cuối cùng là nông nghiệp.

Ở góc độ cơ cấu ngành kinh tế vĩ mô và cơ cấu các thành phần kinh tế, một chỉ số kinh tế khác cũng thường được sử dụng cơ cấu GNP chỉ ở chỗ, chỉ tiêu GNP chỉ phần giá trị tăng thêm hàng năm được sản xuất ra thuộc sở hữu của một nền kinh tế, còn GDP thì ở trong nền kinh tế đó. Tuy nhiên, sự ưa dùng cơ cấu GDP đối với những nền kinh tế đang phát triển, đang công nghiệp hóa không phải bởi nhìn chung quy mô GDP ở đây thường lớn hơn

Xem tất cả 134 trang.

Ngày đăng: 20/07/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí