Mai Châu-Hòa Bình có nguồn tài nguyên rừng khá phong phú, chủ yếu là rừng tự nhiên với nhiều loài cây nhiệt đới. Tuy nhiên, do quá trình khai thác rừng không có kế hoạch, thiếu quản lý tốt kéo dài nên nguồn tài nguyên rừng bị cạn kiệt nhanh chóng. Quá trình phá rừng làm nương rẫy đã phá huỷ nhiều diện tích rừng, làm suy kiệt hệ động thực vật của thiên nhiên.
Mai Châu-Hòa Bình được thiên nhiên ưu đãi với nói non hùng vĩ, nhiều thảm rừng xanh đẹp. Mai Châu-Hòa Bình còn nổi tiếng với những di tích, danh lam nổi tiếng, thu hút nhiều khách du lịch như: hang Khoài, hang Láng, các làng người Thái (bản Lác, Pom Coọng, bản Bước), người H’Mông (xóm Hang Kia). Hang Khoài thuộc xã Xăm Khòe, là một di tích khảo cổ học, đã được Bộ Văn hóa-Thông tin cấp bằng công nhận năm 1996. Hang Láng nằm ở núi Chua Luông, thuộc Bản Lác, xã Chiềng Châu, được phát hiện và khai quật năm 1976.
Mai Châu gồm 1 thị trấn (Mai Châu là trung tâm của kinh tế, hành chính của huyện) và 21 xã, đó là các xã: Cun Pheo, Piềng Vế, Bao La, Xăm Khoè, Mai Hịch, Vạn Mai, Mai Hạ, Chiềng Châu, Nà Phòn, Nà Mèo, Tòng Đậu, Đồng Bảng, Phúc Sạn, Tân Sơn, Tân Mai, Ba Khan, Thung Khe, Noong Luông, Pù Bin, Hang Kia, Pà Cò. Có 8 xã thuộc vùng khó khăn của Mai Châu-Hòa Bình (trong tổng số 60 xã khó khăn của tỉnh Hòa Bình): Noong Luông, Pù Bin, Cun Pheo, Tân Mai, Phúc Sạn, Pà Cò, Hang Kia, Ba Khan.
Dân số khoảng 48.570 người, gồm 7 dân tộc, trong đó chủ yếu là người Thái, Mường, Kinh. Như vậy, trong tỉnh Hòa Bình, Mai Châu-Hòa Bình là huyện có diện tích lớn thứ tư của tỉnh (sau huyện Đà Bắc, huyện Kim Bôi, huyện Lạc Sơn; chiếm 11,1% diện tích toàn tỉnh) nhưng dân số lại là huyện có dân số thấp nhất trong tỉnh Hòa Bình ( 6,2% dân số toàn tỉnh). Mật độ dân số của Mai Châu-Hòa Bình cũng thuộc các huyện thấp nhất của tỉnh Hòa Bình (93 người/km2; chỉ hơn huyện Đà Bắc-59 người/km2).
1.2. Sơ lược lịch sử văn hóa-xã hội của người Thái ở Mai Châu-Hòa Bình
1.2.1. Sơ lược lịch sử hình thành của người Thái Việt Nam và người Thái ở Mai Châu-Hòa Bình
Từ "Người Thái” (Quăm Tay) là để chỉ tộc danh Thái, nằm trong cộng đồng ngôn ngữ dòng Nam Á. Người Thái trên thế giới có diện phân bố khá rộng: Trung Quốc, Việt Nam, Lào, Thái Lan, Miến Điện.
Tộc Thái ở Việt Nam hiện nay có khoảng 1,3 triệu người, tập trung chủ yếu ở các tỉnh vùng Tây Bắc, Nghệ An, Thanh Hóa, một bộ phận nhỏ sống ở Yên Bái, Lào Cai. Ngoài ra, còn có một số rất ít người Thái đã di cư tự do vào một số tỉnh Tây Nguyên-giống như một bộ phận nhỏ của người H’Mông, người Tày vùng Đông Bắc. Tộc Thái có hai ngành khởi đầu:
Có thể bạn quan tâm!
- Tác động của du lịch đến đời sống văn hóa - xã hội của người Thái ở Mai Châu - Hòa Bình và các giải pháp phát triển Nghiên cứu trường hợp 4 bản: bản Lác, bản Pom Coọng, bản Văn, bản Nhót - 1
- Tác động của du lịch đến đời sống văn hóa - xã hội của người Thái ở Mai Châu - Hòa Bình và các giải pháp phát triển Nghiên cứu trường hợp 4 bản: bản Lác, bản Pom Coọng, bản Văn, bản Nhót - 2
- Văn Hóa-Xã Hội Truyền Thống Của Người Thái Ở Mai Châu-Hòa Bình
- Văn Hóa Ứng Xử Của Người Thái Ở Mai Châu-Hòa Bình
- Sự Hình Thành Và Phát Triển Du Lịch Ở Mai Châu-Hòa Bình
Xem toàn bộ 144 trang tài liệu này.
+ Ngành Thái đen (Tay đăm): cư trú chủ yếu ở các huyện của tỉnh Sơn La, một phần ở Yên Bái (Văn Chấn), Điện Biên (Điện Biên, Tuần Giáo), tây nam Lào Cai. Trong ngành Thái đen, có một nhóm gần gũi với văn hóa Lào, đó là người Thái ở Nghệ An, Thanh Hóa.
+ Ngành Thái trắng (Tay khao) tập trung ở Mường Lay, Mường Xo (Lai Châu), Quỳnh Nhai (Sơn La). Một bộ phận khác tự xưng là ngành Thái trắng nhưng có rất nhiều nét giống Thái đen, cư trú tại Phù Yên, Mộc Châu (Sơn La).
Thực ra sự phân chia giữa các ngành của tộc Thái chủ yếu chỉ ở trang phục và một số điểm nhỏ trong ngôn ngữ, tập quán. Các tộc Thái giống nhau cơ bản về ngôn ngữ, chữ viết, phong tục, tập quán. Người Thái đều ăn cơm nếp, ở nhà sàn, đều có tục ở rể, tính tình chân tình, hào hiệp và mến khách. Hình thái kinh tế của các tộc Thái cũng giống nhau, là nền kinh tế sản xuất nhỏ, mang tính tự cung, tự cấp, phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên.
Nhiều nhà nghiên cứu dân tộc học và sử học Việt Nam (Trần Quốc Vượng, Cầm Trọng, Đặng Nghiêm Vạn, Nguyễn Văn Huy.v.v.) đã cho rằng các ngành Thái ở Việt Nam đều chung một gốc với các nhóm Thái ở Nam Trung Hoa, Lào, Thái Lan, Miến Điện.
Tổ tiên người Thái bắt nguồn từ các nhóm Bách Việt, trong khối ngôn ngữ tiền Thái, sinh tụ ở Quảng Tây, Quảng Đông (đông nam Trung Quốc). Ngay ở thời kỳ này họ đã tiếp thu được sự thuần dưỡng cây lúa của tổ tiên người Tạng-Miến, thông qua tổ tiên người Môn-Khơ me. Cũng do sự phát triển cây lúa nước, nên người Thái và một số dân tộc ở vùng này dần dần đã biết làm thuỷ lợi, cây lúa trở thành cây lương thực chính.
Trong thiên niên kỷ thứ nhất trước công nguyên, do sức ép bành chướng thế lực thống trị của người Hán, một bộ phận tổ tiên người Thái cổ đã di cư nhiều đợt theo hướng tây nam, hướng nam vào tỉnh Vân Nam và miền tây Đông Dương-dọc theo các con sông lớn và các chi nhánh của chúng ở vùng Đông Nam Á. Cùng thời điểm đó, một số cuộc thiên di của nhiều nhóm tổ tiên cư dân thuộc ngôn ngữ Tạng-Miến từ Trung Á, tây Trung Quốc cũng tràn xuống khu vực này.
Vào những thế kỷ đầu của thiên kỷ thứ nhất sau công nguyên, người Thái đã lập được một loạt tiểu vương quốc, dọc thượng lưu sông Mê Công, miền thượng Lào, tây bắc Việt Nam. Các tiểu vương quốc này nối liền các cộng đồng của họ ở các miền Quỳ Châu, Quảng Tây, Quảng Đông, đông bắc Việt Nam. Vào các thế kỷ đầu sau công nguyên, một bộ phận Thái ở đầu nguồn sông Đà, sông Nậm Na (thuộc Vân Nam-Trung Quốc) đã di cư xuống phía nam và cư trú tại một số địa điểm tại huyện Phong Thổ (Lai Châu) và Quỳnh Nhai (Sơn La). Cũng từ đây, trong nền văn hóa tộc Thái ở Việt Nam mới ghi được nhiều thông tin về lịch sử hình thành, tồn tại và phát triển của một số bản, mường người Thái ở nước ta.
Đến các thế kỷ cuối của thiên niên kỷ thứ nhất và các thế kỷ của thiên niên kỷ thứ hai sau công nguyên, các nhóm tộc Thái ở Vân Nam lớn mạnh bắt đầu tràn xuống phía nam. Ngành Thái trắng di cư và xuất hiện xuống phía nam sớm hơn ngành Thái đen. Sau khi đánh chiếm, bình ổn vùng thượng lưu sông Đà (Lai Châu), người Thái trắng đã tràn xuống vùng Quỳnh Nhai (Sơn La), Mường Tè, Phong Thổ (Lai Châu), Phù Yên (Sơn La), một số bộ phận di cư xuống Đà Bắc, Mai Châu-Hòa Bình (Hòa Bình), Mường Khoòng (Thanh Hóa).
Ngành Thái đen vào Việt Nam đông đảo nhất vào khoảng thế kỷ XI-XII. Đến thế kỷ thứ XI, hai anh em Tạo Xuông-Tạo Ngần đã đưa ngành Thái đen (Tay đăm) xuất phát từ Vân Nam (Trung Quốc) dọc theo sông Hồng xuống Mường Lò (Lai Châu). Đây chính tổ tiên của người Thái đen ở Sơn La sau này. Ngành Thái đen tập trung nhiều ở tỉnh Sơn La (hầu như ở tất cả các huyện trong tỉnh), một phần ở tỉnh Yên Bái, Điện Biên (thị xã Điện Biên, Tuần Giáo) và tây nam tỉnh Lào Cai.
Qua nhiều thế kỷ phát triển, các nhóm tộc Thái dần dần có một số sắc thái địa phương khác nhau, đó là kết quả chủ yếu của quá trình hỗn huyết và tiếp thu văn hóa của các cư dân xunh quanh. Một bộ phận chung sống với người Mường-chịu ảnh hưởng của văn hóa Mường, sống với người Tày-ảnh hưởng của người Tày; một số nhóm gốc tộc Thái hỗn huyết với nhau, hỗn huyết với các tộc khác.v.v.
* * *
* *
Mai Châu-Hòa Bình trước kia còn được gọi là Mường Mùn, Mường Mai, được hình thành vào khoảng thế kỷ XIII. Thời nhà Trần, Mường Mai thuộc lộ Đà Giang, trấn Gia Hưng, thuộc trấn Hưng Hóa. Dưới thời nhà
Nguyễn, Mai Châu-Hòa Bình gồm tổng Thanh Mai và Bạch Mai. Trong thời Pháp thuộc, Mai Châu-Hòa Bình thuộc phủ Chợ Bờ, tỉnh Hòa Bình. Đến tháng 10 năm 1890, Mai Châu-Hòa Bình được hợp nhất với châu Đà Bắc, thành châu Mai Đà. Sau một thời gian tồn tại, châu Mai Đà lại tách thành hai, đến năm 1941 lại được hợp nhất thành châu Mai Đà. Năm 1956, Mai Châu- Hòa Bình và Đà Bắc được tách thành hai huyện từ huyện Mai Đà. Mai Châu- Hòa Bình trở thành huyện của tỉnh Hà Sơn Bình (1976-1991) khi sát nhập ba tỉnh: Hòa Bình, Sơn Tây, Hà Đông. Từ tháng 10 năm 1991 lại trở về địa danh của tỉnh Hoà Bình cho đến nay.
Người Thái ở Mai Châu-Hòa Bình có lai lịch khá rõ ràng nhờ các ghi chép trong một cuốn biên niên sử tìm thấy không lâu, nhờ công sưu tầm của Sở văn hóa tỉnh Hòa Bình. Tổ tiên người Thái ở Mai Châu-Hòa Bình từ miền đầu sông Hồng, ở một vùng đất thuộc huyện Bắc Hà (Lai Châu) ngày nay đã di cư dọc sông Hồng, rẽ sang sông Đà, rồi lập nghiệp ở vùng Mộc Châu (Sơn La), Mai Châu (Hòa Bình), Mường Khoòng (Thanh Hóa), khoảng 700 năm trước đây-tức vào khoảng đầu thế kỷ thứ XIV.
Người lãnh đạo người Thái ở Mai Châu-Hòa Bình lập nghiệp tại Mường Mùn là lang Bôn. Lang Bôn là con cả của tạo Khà, nhưng là con vợ hai, nên khi lấy vợ được chia rất ít đất. Vì lẽ đó, ông đã đưa gia quyến từ vùng Bắc Hà (Lai Châu) bỏ xuống vùng Bạch Hạc. Ở Bạch Hạc ít lâu, thấy không thuận tiện, ông đã xuôi dòng sông Đà và đã lập cư tại Mai Châu-Hòa Bình.
Nguồn gốc của người Thái ở Mai Châu-Hòa Bình có liên quan đến nhóm người Thái ở Mộc Châu và nhóm người Thái ở Mường Lầu, Mường Khoòng (Thanh Hóa). Sự liên quan đó đã được ghi lại thành truyền thuyết. Truyền thuyết nói về 3 anh em nhà tạo (tạo thường chỉ con trai dòng dõi quí tộc của người Thái) ở vùng Bắc Hà (Lai Châu) vì thiếu đất và đất nhiều cỏ gianh nên đã rủ nhau xuôi sông Hồng tìm đất lập mường mới. Theo truyền thuyết, người
con thứ hai đã lập nghiệp ở Mai Châu-Hòa Bình, người con út ở vùng Thanh Hóa, người anh cả ở vùng Mộc Châu. Chính vì vậy người Thái vùng Thanh Hóa gọi người Thái ở Mai Châu-Hòa Bình là bác, người Thái ở Mai Châu- Hòa Bình gọi họ là chú vì chúa đất xưa là em út.
Người Thái đến Mường Mùn khai khẩn đất đai vất vả, kéo dài hàng chục đời người. Lịch sử người Thái ở Mai Châu-Hòa Bình đã ghi rõ:
Tới Bản Tẩu, lang Bôn thấy dấu vết người xưa ở đây, đã cho dân dừng lại tạo bản mới. Khi đến bản Pướt được 2 năm thì Lang Bôn chết. Về sau con của lang Bôn (cũng tên lang Bôn) đã cùng dân khai phá bản Pheo, bản Uống, bản Pao, bản Làu, bản Lồm…
Con của lang Bôn là lang Bắt mở mang bản Nghẹ, bản Củm, bản Lóng, bản Buốc, bản Noong Lang, bản Ngoã, bản Hiền.
Lang Thượng (con lang Bắt) lập ra bản Uống.
Lang Uôn (con lang Thượng) lập bản Bước, sinh ra lang Thanh
Tạo Kha Bằng (cháu nội lang Thanh) lập bản Púng, bản Pheo Nà Nóc.
Tạo Kha Bằng lấy nàng Ngăm, sinh ra lang Xôm. Lang Xôm lấy vợ người Mường Khiển, sinh được 3 con trai. Ba con trai của lang Xôm đã ra sức khai khẩn, kể cả vùng đất khó làm. Tạo Khằm Bông (anh cả) ở vùng đất Mường Hạ, tạo Khằm Piềng ở vùng Mường Thượng, tạo Khằm Pành (con út) ở vùng Mường Khoòng.
Như vậy, lịch sử người Thái ở Mai Châu-Hòa Bình đã trải qua khoảng 6 thế kỷ, trong đó kể từ thời lang Bôn đến thời 3 anh em con tạo Kha Bằng đã trải qua 9 đời chúa đất, với thời gian khoảng 200 năm mới cơ bản khai phá xong ruộng đồng của tổ tiên để tồn tại, sinh sống, phát triển đến ngày nay.
Người Thái ở Mai Châu-Hòa Bình mang nhiều họ khác nhau, nhưng phổ biến nhất là họ Hà, sau đó là họ Lò, họ Hoàng, họ Ngần… Trong họ Hà, tộc Hà Công trước kia có nhiều người làm quan nhất (kể cả quan văn và quan võ).
1.2.2. Sơ lược về lịch sử hình thành và phát triển văn hóa-xã hội của người Thái ở Mai Châu-Hòa Bình
Cũng như người Thái ở các vùng khác, người Thái ở Mai Châu-Hòa Bình quần cư thành các bản, với số nóc nhà khoảng 30-100 gia đình. Bản thường ở thung lũng nhỏ, trung bình, phẳng hoặc hình lòng chảo, có sông, suối chảy qua, đảm bảo nguồn nước cho sinh hoạt và một phần cho tưới tiêu trong nông nghiệp. Vị trí của các bản được lựa chọn, tính toán tương đối kỹ, sao cho thuận tiện về nguồn nước, nhưng đảm bảo không bị ngập lụt khi mưa to hay có lũ quét.v.v.
Trong một bản, tuỳ thuộc vào số nóc nhà, lịch sử phát triển mà có thể có ít hoặc nhiều dòng họ khác nhau, nhưng khởi thuỷ thường rất ít dòng họ. Sau một thời gian phát triển, số dòng họ trong bản tăng lên nhưng không nhiều.
Cũng như người Thái ở các vùng khác, người Thái ở Mai Châu-Hòa Bình có chữ viết và tiếng nói riêng của mình-tiếng Thái, chữ Thái. Tiếng Thái thuộc hệ ngôn ngữ Tày-Thái, là hệ ngôn ngữ phổ biến tương đối rộng rãi ở vùng Đông Nam Á. Ở nước ta có 8 dân tộc có ngôn ngữ thuộc hệ Tày-Thái: Tày, Nùng, Sán Chay, Bố Y, Thái, Lự, Lào, Giấy. Chữ viết thuộc hệ chữ tượng hình.
Về ngôn ngữ, trước kia do nhu cầu giao dịch, giao lưu ít, vì người Thái chiếm tỉ lệ dân số rất lớn trong huyện nên họ hầu như không sử dụng ngôn ngữ nào khác ngoài tiếng Thái, chỉ có một số rất ít người biết tiếng Mường, hoặc tiếng Việt. Về sau, do sự phát triển kinh tế, văn hóa-xã hội số người biết và sử dụng tiếng Việt ngày càng tăng.
Nền văn hóa của người Thái ở Mai Châu-Hòa Bình cũng như nền văn hóa của tộc Thái trên toàn quốc là mô hình văn hóa thung lũng, lấy cây lúa nước làm trụ cột, do đó cũng có thể gọi là văn hóa lúa nước. Văn hóa thung lũng chính là sự hội nhập giữa văn hóa củ, bầu bí-cạn và văn hóa lúa-nước, có hai nguồn gốc đến với người nguyên thuỷ hoàn toàn khác nhau.
Người Thái ở Mai Châu-Hòa Bình cũng tập trung sống thành các bản, một số bản tập trung thành một mường, mường thường là tập trung một số bản nằm trên một vành đai thung lũng. Trung tâm của các mường thường gọi là chiềng, là nơi màu mỡ, trù phú nhất mường, vị trí địa lý thuận tiện (có thể đi lại, tiếp xúc dễ dàng với xung quanh, gần sông suối, ruộng vườn). Có thể nói chiềng là nơi cư trú lý tưởng, do vậy thường là nơi ở của các dòng họ quí tộc, là nơi đóng đô của bộ máy thống trị của mường.
Trong bản, mường trước kia đều có bộ máy thống trị, với quan điểm tất cả đất đai, nương rẫy là của vua, của tạo. Tạo là người đứng đầu bản, mường. Còn quan châu (an nha) lại phân quyền, ban cấp các sản vật thiên nhiên cho các mường, các bản.
1.2.3. Sơ lược lịch sử phát triển kinh tế của người Thái ở Mai Châu-Hòa Bình
Đời sống kinh tế của người Thái ở Mai Châu-Hòa Bình trước kia cũng như của người Thái ở vùng khác thường gắn liền với trồng trọt, săn bắt và hái lượm, việc dệt vải, may vá đều tự cung, tự chế. Kinh tế mang nặng tính tự cung, tự cấp.
Trước kia người Thái ở Mai Châu-Hòa Bình chỉ trồng lúa nếp, cấy một vụ trong năm, ngoài ra còn trồng một ít lúa tẻ trên nương rẫy. Ngày nay, do sức ép dân số, do thay đổi trong thói quen ẩm thực và cũng do học được cách trồng lúa tẻ của dân tộc Kinh, người Thái đã chuyển sang trồng 2 vụ lúa/năm,