Chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Malaixia trong qua trình hội nhập kinh tế quốc tế - thực trạng, kinh nghiệm và khả năng vận dụng vào Việt Nam - 5


1.2. một số vấn đề về Chính sách thu hút FDI

Trong xu thế toàn cầu hóa kinh tế quốc tế và cuộc cách mạng khoa học và công nghệ diễn ra mạnh mẽ, đầu tư quốc tế nói chung, FDI nói riêng phát triển theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa và ngày càng đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của mỗi nước, nhất là các nước ĐPT. Quốc gia nào thu hút được nhiều và sử dụng có hiệu quả nguồn FDI sẽ có cơ hội tăng trưởng kinh tế nhanh, rút ngắn khoảng cách về trình độ phát triển so với các nước công nghiệp. Song, trong thực tế, không phải bao giờ một quốc gia cũng đạt được kết quả thu hút FDI như mong muốn, bởi vì, đầu tư phát triển là hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro, chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau. Mục tiêu để các nhà đầu tư nước ngoài tiến hành hoạt động đầu tư ở một quốc gia nào đó là phải có được lợi nhuận cao hơn so với đầu tư ở các nơi khác. Muốn vậy, ngoài các điều kiện về phía chủ quan các nhà đầu tư nước ngoài như sở hữu lợi thế cạnh tranh và có lợi ích về đầu tư lớn hơn so với doanh nghiệp của nước tiếp nhận đầu tư, còn cần điều kiện được ưu đãi và có được những thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh tại nước tiếp nhận đầu tư. Hay nói cách khác, để quyết định bỏ vốn đầu tư, nhà đầu tư nước ngoài phải được đảm bảo về độ an toàn thu hồi vốn, phải được cung cấp những điều kiện tối thiểu về nguồn lực và các điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh, phải được hấp dẫn bởi triển vọng kiếm được lợi nhuận hợp lý... Những đòi hỏi đó, tự thân thị trường tự do không đáp ứng đủ, nên nhà nước phải vào cuộc bằng cách hoạch định và thực thi những chính sách khuyến khích thu hút FDI. Vì thế, trong bối cảnh cạnh tranh thu hút FDI gay gắt hiện nay, các nước ĐPT đang bị cuốn hút vào hoạt động đổi mới, điều chỉnh chính sách, cải thiện môi trường đầu tư theo hướng thông thoáng, hấp dẫn để tăng cường khả năng thu hút có hiệu quả nguồn FDI cho phát triển đất nước.

Như vậy, chính sách thu hút FDI là một trong những chính sách quan trọng trong hệ thống chính sách kinh tế - xã hội của nhà nước; có vai trò rất lớn đối với


việc nâng cao năng lực cạnh tranh thu hút FDI, điều chỉnh FDI hoạt động có hiệu quả hơn theo mục tiêu phát triển đất nước.

Trong phạm vi nghiên cứu, luận án tập trung xem xét một số vấn đề về chính sách thu hút FDI sau đây:

1.2.1. Chính sách thu hút FDI

Thuật ngữ chính sách đã được sử dụng rất phổ biến trong công tác quản lý cũng như trong đời sống xã hội hàng ngày. Đến nay, chưa có một định nghĩa hay khái niệm thống nhất về "chính sách". Theo quan niệm phổ biến, chính sách là tổng thể các tư tưởng, quan điểm, giải pháp và công cụ mà chủ thể quản lý sử dụng để tác động lên đối tượng và khách thể quản lý nhằm thực hiện những mục tiêu nhất định của hệ thống theo định hướng mục tiêu cụ thể [46, tr 18]. Trên thực tế, mọi chủ thể kinh tế - xã hội đều có những chính sách của mình về các lĩnh vực khác nhau, chẳng hạn: Chính sách của tổ chức quốc tế, chính sách của một nhóm nước, chính sách của một quốc gia, chính sách của một doanh nghiệp... Các chủ thể này căn cứ vào tình hình thực tiễn trong từng lĩnh vực, từng giai đoạn, trên cơ sở đường lối, nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội... để linh hoạt vận dụng đề ra chính sách phù hợp và tuân thủ phương hướng, mục tiêu chung. Trong phạm vi, mục tiêu nghiên cứu, luận án chỉ tìm hiểu chính sách vĩ mô của nhà nước về thu hút FDI. Chính sách thu hút FDI là một bộ phận trong hệ thống chính sách kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia.

Giáo trình Chính sách Kinh tế - xã hội của Khoa Khoa học quản lý, Trường Đại học Kinh tế quốc dân cho rằng "Chính sách kinh tế - xã hội là tổng thể các quan điểm, tư tưởng, các giải pháp và công cụ mà nhà nước sử dụng để tác động lên các đối tượng và khách thể quản lý nhằm giải quyết vấn đề chính sách, thực hiện những mục tiêu nhất định theo định hướng mục tiêu tổng thể của xã hội" [46, tr 22].

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 225 trang tài liệu này.

Qua các khái niệm trên và thực tiễn cho thấy, chính sách kinh tế - xã hội (hay còn gọi là chính sách công) hiểu theo nghĩa rộng đó là tổng thể các quan điểm tư tưởng phát triển, những mục tiêu tổng quát và những phương thức cơ bản để thực hiện mục tiêu phát triển đất nước. Theo nghĩa hẹp, chính sách kinh tế - xã hội là tổng thể các


Chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Malaixia trong qua trình hội nhập kinh tế quốc tế - thực trạng, kinh nghiệm và khả năng vận dụng vào Việt Nam - 5

quan điểm, các chuẩn mực, các quyết sách, các biện pháp của nhà nước sử dụng để tác động tới các đối tượng, các khách thể quản lý, thông qua các cơ quan trong bộ máy nhà nước để điều hành các hoạt động kinh tế - xã hội theo những mục tiêu mà nhà nước mong muốn đạt được.

Các quan điểm là sự nhận thức khách quan của chủ thể quản lý về vấn đề nào đó, là cơ sở, kim chỉ nam để nghiên cứu, giải quyết các vấn đề quản lý để vừa đạt được những mục tiêu phát triển trong từng giai đoạn, vừa bảo đảm thực thi đường lối phát triển của cả hệ thống. Các giải pháp, công cụ là phương pháp hành động mà chủ thể quản lý lựa chọn, sử dụng để thực hiện mục tiêu cụ thể của chính sách. Có nghĩa là, các quan điểm mang tính tư tưởng, tính chỉ đạo tầm chiến lược, còn các giải pháp, công cụ mang tính điều hành, tính tác nghiệp cụ thể.

Chính sách thu hút FDI

Phù hợp với việc phân loại đầu tư quốc tế theo phạm vi quốc gia gồm đầu tư ra nước ngoài và đầu tư từ nước ngoài, chính sách đầu tư nước ngoài có thể được phân loại theo dòng chảy của vốn đầu tư thành chính sách thu hút đầu tư nước ngoài và chính sách đầu tư ra nước ngoài.

Cũng giống như khái niệm "chính sách" nói chung, đến nay chưa có một định nghĩa hay khái niệm chuẩn mực nào về chính sách thu hút FDI. Mặc dầu nội hàm của khái niệm "chính sách thu hút FDI" hẹp hơn khái niệm "chính sách" vì chính sách thu hút FDI chỉ là một bộ phận trong các chính sách phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia. Trên thực tế, không có một văn bản pháp lý nào phản ảnh trọn vẹn hay được coi là toàn bộ chính sách thu hút FDI của một quốc gia. Chính sách thu hút FDI bao gồm cả một hệ thống các chính sách, biện pháp, công cụ mà nhà nước sử dụng để điều chỉnh các hoạt động về lĩnh vực thu hút FDI. Chính sách thu hút FDI mang tính chất tổng hợp và có quan hệ hữu cơ với nhiều chính sách về nhiều lĩnh vực khác nhau, như: Chính sách đầu tư, chính sách thuế, chính sách lao động và việc làm, chính sách xuất nhập cảnh, chính sách ngoại thương, chính sách đối ngoại... Chính sách thu hút FDI không chỉ có ảnh hưởng trong phạm vi quốc gia, mà phạm vi ảnh hưởng đến cả các tổ chức, cá nhân người nước ngoài.


Căn cứ vào các quan niệm lý thuyết phổ biến về chính sách kinh tế - xã hội, đặc điểm khách thể tác động của chính sách, các yếu tố liên quan đến hành động đầu tư... có thể hiểu: Chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là tổng thể các tư tưởng, quan điểm, các biện pháp và công cụ mà nhà nước sử dụng để tạo môi trường thuận lợi nhằm thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn FDI trong một thời gian nhất định, nhằm đạt được các mục tiêu theo chiến lược phát triển kinh tế - xã hội như mong muốn.

Chính sách thu hút FDI có một số đặc trưng sau:

- Chủ thể chính sách thu hút FDI là nhà nước. Với tư cách là người đại diện, người tổ chức và quản lý toàn xã hội, nhà nước thực hiện việc ban hành chính sách thu hút FDI nhằm khai thác và điều chỉnh có hiệu quả hoạt động FDI, phục vụ lợi ích chung của xã hội. Nhà nước bao giờ cũng gắn với một chế độ chính trị nhất định, chịu sự chi phối bởi đường lối chính trị, quan điểm của một hay liên minh của đảng cầm quyền. Hay nói cách khác, chính sách thu hút FDI thể hiện tư tưởng, quan điểm của đảng lãnh đạo nhà nước. Tính đại diện của nhà nước được thể hiện trong việc phân cấp thẩm quyền ban hành chính sách của từng cơ quan trong bộ máy nhà nước như quốc hội, chính phủ, chính quyền địa phương. Mỗi cơ quan này có một thẩm quyền ban hành những chính sách nhất định, chẳng hạn: Quốc hội ban hành luật; chính phủ ban hành nghị định về giá thuê đất, mức lương tối thiểu...; chính quyền địa phương có thể quy định một số chính sách hỗ trợ đền bù giải phóng mặt bằng, hỗ trợ đào tạo nghề... Đồng thời, mỗi loại văn bản pháp luật đòi hỏi có một quy trình nhất định từ khâu soạn thảo, thông qua, công bố ban hành và tổ chức thực thi chính sách. Do vậy, chính sách thu hút FDI phụ thuộc rất lớn vào thể chế và tổ chức bộ máy nhà nước.

- Đối tượng tác động của chính sách thu hút FDI là các nhà đầu tư nước ngoài

- chủ yếu là tư nhân. Mục tiêu bỏ vốn đầu tư của nhà đầu tư là lợi nhuận, trong khi mục tiêu thu hút FDI của nước tiếp nhận đầu tư là hiệu quả chung về kinh tế - xã hội. Nên vấn đề đặt ra là, chính sách thu hút FDI vừa phải tạo lập được môi trường đầu tư hấp dẫn, có lợi cho các nhà đầu tư, nhưng đồng thời phải đảm bảo hài hòa lợi ích chung của toàn xã hội. Đây là yêu cầu hết sức khó khăn và mâu thuẫn trong quá


trình hoạch định và triển khai thực hiện chính sách.

- Cũng giống như chính sách nói chung, quá trình chính sách thu hút FDI bao gồm các công đoạn: Hoạch định chính sách (xây dựng, phân tích, lựa chọn phương án, thông qua chính sách); thể chế hóa chính sách (cụ thể hóa chính sách bằng các văn bản pháp quy, công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng); tổ chức thực hiện chính sách; kiểm tra, điều chỉnh và tổng kết chính sách. Thông thường, quá trình chính sách có thể rút gọn bao hàm hai công đoạn: Hoạch định chính sách và triển khai thực hiện chính sách. Thực tế cho thấy, chính sách thu hút FDI trước hết thể hiện kế hoạch của nhà nước nhằm thay đổi, phát triển lĩnh vực hoạt động FDI. Nhưng nếu chỉ dừng lại ở việc ban hành chính sách, tức là hoạch định xong kế hoạch rồi để đấy thì không thể có kết quả theo mục tiêu mà nhà nước mong muốn. Do vậy, sau khi ban hành, chính sách thu hút FDI còn phải được tổ chức triển khai thực thi để đưa lại những kết quả thực tế.

- Chính sách thu hút FDI nhằm hướng tới các mục tiêu kinh tế vĩ mô ngắn hạn và dài hạn. Trong đó:

+ Mục tiêu ngắn hạn là nhằm tiếp nhận được nguồn vốn bổ sung cho phát triển, tiếp nhận được công nghệ, kỹ năng quản lý tiên tiến, tạo thêm việc làm mới, góp phần tăng tổng sản phẩm xã hội...

+ Mục tiêu dài hạn là nhằm tăng năng lực sản xuất quốc gia, hướng FDI vào các ngành, lĩnh vực, khu vực kinh tế theo mục tiêu phát triển đất nước.

- Chính sách thu hút FDI có thể mang tính dài hạn, nhưng cũng có thể là ngắn hạn. Chính sách dài hạn là những chính sách được áp dụng lâu dài nhằm thực hiện mục tiêu phát triển các thành phần kinh tế, khuyến khích xuất khẩu tăng năng lực cạnh tranh quốc tế của các ngành kinh tế...; chính sách ngắn hạn là những chính sách được áp dụng trong một khoảng thời gian ngắn (thường dưới ba năm) nhằm giải quyết những vấn đề có thể giải quyết tương đối nhanh, ví dụ: Chính sách kiềm chế lạm phát, chính sách lãi suất... Tuy nhiên, tất cả các chính sách đều phải thống nhất và hướng vào thực hiện những mục tiêu chung, mục tiêu lâu dài của đất nước.

- Hoạt động đầu tư thực chất là hoạt động kinh doanh nên chính sách thu hút FDI cũng phải tuân thủ các quy luật của kinh tế thị trường, sử dụng hệ thống công


cụ và đòn bẩy kinh tế phù hợp với quy luật của kinh tế thị trường. Nghĩa là, chính sách thu hút FDI phải hướng tới giải quyết hài hòa các lợi ích, đồng thời phải tạo ra những lợi thế trong cạnh tranh thu hút FDI. Bởi thực tế cho thấy, nhà đầu tư sẽ lựa chọn những nơi (địa điểm đầu tư) có cơ hội đem lại lợi nhuận cao nhất thông qua việc mở rộng thị trường tiêu thụ để tăng doanh thu, tiết kiệm chi phí để hạ giá thành sản phẩm; dưới góc độ người tiêu dùng, thì giá cả và giá trị sử dụng của hàng hóa là tiêu chí quyết định hành động tiêu dùng của họ; còn đối với nhà nước, mục tiêu chung là phát triển kinh tế gắn với an sinh, công bằng xã hội, đảm bảo môi trường, tạo cơ sở vững chắc cho phát triển bền vững. Vì thế, nhà nước phải định hướng thu hút FDI vào những ngành, lĩnh vực vừa đem lại lợi ích cho nhà đầu tư, vừa phục vụ lợi ích của người dân, đáp ứng mục tiêu chung của đất nước, đồng thời tạo lập môi trường đầu tư hấp dẫn, cạnh tranh với các quốc gia khác để thu hút FDI.

- Là bộ phận cấu thành hệ thống chính sách kinh tế - xã hội, các quy định về chính sách thu hút FDI phải đảm bảo thống nhất, đồng bộ với các chính sách liên quan khác như: Chính sách thương mại, chính sách tài chính...

- Chính sách thu hút FDI có thể tác động theo 2 hướng:

Một là, khuyến khích đầu tư. Căn cứ vào mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, nhà nước thấy cần thiết phải thu hút FDI vào những ngành, lĩnh vực kinh tế, những địa bàn nhất định hoặc những nhu cầu quan trọng khác (khai thác tài nguyên, lao động, mục tiêu xuất khẩu hàng hóa...), từ đó đưa ra các quy định có tính chất ưu đãi, nâng đỡ, khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư theo định hướng đó.

Hai là, hạn chế đầu tư. Có những ngành, lĩnh vực hay địa bàn mà nhà nước xét thấy không phù hợp với các mục tiêu chung, thì nhà nước sẽ đưa ra các chính sách để hạn chế đầu tư nói chung, hạn chế FDI nói riêng.

- Cơ chế tác động của chính sách thu hút FDI tới các nhà đầu tư nước ngoài thông qua hai bộ phận: Thứ nhất là bảo đảm đầu tư, tức là tạo ra môi trường hấp dẫn, sự an tâm cho các nhà đầu tư để họ quyết định đầu tư, chẳng hạn: Bảo đảm quyền sở hữu cho nhà đầu tư, tạo lập môi trường đầu tư hấp dẫn (môi trường chính trị, môi trường xã hội, hệ thống pháp luật...); Thứ hai là khuyến khích đầu tư, tức là


có chính sách ưu đãi về thuế, lao động, đất đai... để khuyến khích đầu tư nhiều hơn.

- Nhìn chung, chính sách thu hút FDI bao gồm một số nội dung:

Về kinh tế: Sử dụng các công cụ đòn bẩy kinh tế như thuế, giá, trợ cấp để tác động vào lợi ích của nhà đầu tư, qua đó kích thích hành vi đầu tư.

Về hành chính - pháp luật: Xây dựng hệ thống luật pháp đồng bộ, thông thoáng, công khai, minh bạch để đảm bảo quyền lợi và tạo sự yên tâm cho nhà đầu tư; xây dựng cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý gọn nhẹ với đội ngũ công chức có năng lực, trách nhiệm tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư hoạt động có hiệu quả hơn.

Bên cạnh đó, trong thu hút FDI còn sử dụng các biện pháp giáo dục, tuyên truyền như quảng bá hình ảnh đất nước, cung cấp thông tin, xúc tiến đầu tư...

1.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến chính sách thu hút FDI trong hội nhập KTQT

Trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập KTQT của thế giới đương đại ngày nay, khả năng thu hút FDI của mỗi quốc gia phụ thuộc vào khá nhiều nhân tố, có nhân tố thuộc về trong nước, có nhân tố phụ thuộc vào điều kiện bên ngoài. Với mục tiêu thu hút FDI đạt hiệu quả, các nước ĐPT đã ban hành chính sách thu hút nhằm tăng thêm tính hấp dẫn về môi trường đầu tư, đó là tổng thể những tác động bên trong và bên ngoài nước có ảnh hưởng đến hoạt động của các nhà đầu tư nước ngoài. Dưới góc độ là nước tiếp nhận FDI, trong hoạch định và thực thi chính sách thu hút FDI chịu sự tác động của nhiều nhân tố sau đây.

1.2.2.1. Các nhân tố bên ngoài

Một là: Xu thế toàn cầu hóa và hội nhập KTQT

Toàn cầu hóa, hội nhập KTQT đã trở thành xu thế tất yếu trong thời đại ngày nay, nó tác động lôi cuốn tất cả các quốc gia tham gia vào tiến trình này với các mức độ khác nhau, mà không một quốc gia nào có thể quay lưng lại. Nếu như toàn cầu hóa là quá trình hình thành và phát triển các thị trường toàn cầu, làm tăng sự tương tác và tùy thuộc lẫn nhau, trước hết về kinh tế giữa các nước thông qua sự gia tăng thương mại và đầu tư cùng với sự hình thành các định chế, tổ chức quốc tế, thì hội nhập KTQT là quá trình chủ động gắn kết nền kinh tế và thị trường của từng nước


với kinh tế khu vực và thế giới thông qua các nỗ lực tự do hóa và mở cửa trên các cấp độ đơn phương, song phương và đa phương. Hay nói cách khác, hội nhập KTQT thực chất là sự chủ động tham gia vào quá trình toàn cầu hóa kinh tế hay khu vực hóa. Mức độ hội nhập KTQT của nước nhận đầu tư càng sâu, rộng thì càng có cơ hội thu hút dòng chảy FDI. Mức độ ảnh hưởng của toàn cầu hóa, hội nhập KTQT tới chính sách thu hút FDI của các nước ĐPT thể hiện bởi các khía cạnh sau:

- Toàn cầu hóa, hội nhập KTQT thúc đẩy tự do hóa thương mại và đầu tư quốc tế, làm cho các rào cản bị loại bỏ dần, từ đó tạo điều kiện thuận lợi để các nước tăng cường thương mại quốc tế, thu hút đầu tư và các nguồn lực bên ngoài. Như vậy, toàn cầu hóa và hội nhập KTQT đã kết nối các nền kinh tế lại gần nhau, thúc đẩy sự thông thoáng, mở cửa hoạt động đầu tư mà không bị giới hạn bởi các biên giới quốc gia, chủng tộc, tôn giáo, chế độ chính trị-xã hội. Từ đó đặt ra yêu cầu đối với chính sách thu hút FDI phải đa dạng hóa đối tác đầu tư.

- Cạnh tranh toàn cầu sẽ triệt tiêu dần các lợi thế độc quyền, hiệu quả kinh tế trở thành thước đo chung cho mọi doanh nghiệp, mọi quốc gia. Các nhà đầu tư nước ngoài luôn tìm đến những địa điểm đầu tư mang lại hiệu quả cao hơn. Đây vừa là cơ hội để các nước phát huy lợi thế của mình, nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức trong cạnh tranh để thu hút có hiệu quả FDI. Do vậy, đòi hỏi các nước phải có những điều chỉnh chính sách kinh tế cũng như chính sách thu hút FDI phù hợp để phát huy các lợi thế cạnh tranh và thu được kết quả cao nhất trong hội nhập KTQT.

- Tự do hóa thương mại và đầu tư đòi hỏi các nước tiến tới mở cửa hoàn toàn thị trường nội địa để cho hàng hóa và nhà đầu tư nước ngoài đầu tư kinh doanh ở hầu hết các lĩnh vực trên nguyên tắc tự do cạnh tranh và bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, từng bước hạ thấp và tiến tới loại bỏ hàng rào thuế quan và nhiều chính sách khác liên quan đến bảo hộ hàng hóa sản xuất trong nước. Theo UNCTAD (2004), có 40% các nước châu Phi, 61% các nước Châu á - Thái Bình Dương, hơn 50% các nước Trung và Đông Âu thực hiện đẩy mạnh tự do hóa FDI [57, tr 36].

- Tham gia hội nhập KTQT, hệ thống pháp luật cũng như chính sách thu hút FDI phải đầy đủ, đồng bộ theo hướng bình đẳng, công khai, minh bạch, phù hợp với

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 19/09/2022