- Thực hiện đồng bộ các biện pháp phòng ngừa, tăng cường kiểm soát, xử lý các cơ sở gây ô nhiễm môi trường.
Phát triển bền vững là gắn kết các hệ thống chính sách của địa phương đề ra bao gồm các chính sách về công nghiệp, về nông nghiệp, về thương mại dịch vụ, các chính sách xã hội: giảm nghèo, việc làm và phúc lợi xã hội, các chính sách về y tế, giáo dục, về sức khoẻ cộng đồng, về bảo vệ môi trường,.. một cách có hiệu quả nhất.
3.4. CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
3.4.1. Giải pháp tăng cường chức năng, vai trò quản lý Nhà nước
Một là, tuyên truyền, phổ biến rộng rãi chủ trương, chính sách về phát triển công nghiệp trên địa bàn. Cần tổ chức công khai hoá công tác quy hoạch phát triển ngành, các chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển ngành công nghiệp thông qua các phương tiện thông tin đại chúng. Đồng thời với đó là tư vấn cho các nhà đầu tư và doanh nghiệp trong các lĩnh vực đầu tư, trên cơ sở các danh mục ngành nghề, sản phẩm ưu tiên đầu tư, các cơ quan quản lý Nhà nước có liên quan đến công tác thẩm định dự án đầu tư, cấp phép,… cần có những thông tin mang tính khuyến cáo để giúp các nhà đầu tư, các doanh nghiệp có thông tin về lĩnh vực đầu tư dự kiến, hạn chế được những rủi ro và lãng phí trong đầu tư.
Hai là, xây dựng chương trình hỗ trợ phát triển các sản phẩm công nghiệp chủ lực cho từng giai đoạn, trong đó tập trung vào các chính sách hỗ trợ
- Hỗ trợ về xúc tiến thương mại, phát triển thị trường.
- Hỗ trợ thiết kế sản phẩm, lựa chọn và chuyển giao công nghệ
- Hỗ trợ nguồn vốn đầu tư
Có thể bạn quan tâm!
- Chính Sách Phát Triển Công Nghiệp Nhằm Tạo Nên Sản Phẩm Hàng Hoá Có Giá Trị Gia Tăng Cao
- Tạo Nguồn Vốn Cho Phát Triển Công Nghiệp
- Chính sách phát triển công nghiệp tại địa phương nghiên cứu áp dụng với tỉnh Bắc Ninh - 21
- Chính sách phát triển công nghiệp tại địa phương nghiên cứu áp dụng với tỉnh Bắc Ninh - 23
- Tốc Độ Tăng Trưởng Gdp Theo Giá So Sánh 1994 Phân Theo Ba Khu Vực
- Chính sách phát triển công nghiệp tại địa phương nghiên cứu áp dụng với tỉnh Bắc Ninh - 25
Xem toàn bộ 216 trang tài liệu này.
- Hỗ trợ xây dựng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế, sở hữu công nghiệp.
- Hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực.
Ba là, tạo điều kiện thuận lợi và hỗ trợ doanh nghiệp
- Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan trong việc quản lý sau giấy phép đầu tư đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, tạo ra sân chơi bình đẳng cho các thành phần kinh tế.
- Hiện đại hoá công nghệ doanh nghiệp Nhà nước, ấn định trình độ công nghệ tối thiểu để đầu tư vào địa bàn Bắc Ninh đối với các thành phần kinh tế.
- Đẩy mạnh việc triển khai hỗ trợ đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ cho các doanh nghiệp trên địa bàn.
- Ưu tiên nguồn vốn ưu đãi cho các dự án đầu tư sản phẩm công nghiệp chủ lực, ngoài những chính sách chung của Nhà nước, tỉnh cần có nguồn kinh phí hỗ trợ cho các doanh nghiệp Nhà nước thực hiện các chương trình nghiên cứu cải tiến công nghệ, nhằm khuyến khích các cá nhân trong các doanh nghiệp Nhà nước tham gia nghiên cứu công nghệ mới.
Đối với tỉnh Bắc Ninh, phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa là biện pháp tác động trực tiếp vào quá trình phát huy lợi thế so sánh, do những lợi thế so sánh truyền thống của khu vực kinh tế làng nghề, phát huy nỗ lực sáng tạo kinh tế của dân chúng ở vùng đất sớm có truyền thống kinh doanh, phù hợp với điều kiện đất đai ít,... Hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh còn nhằm vào khắc phục những thất bại thị trường như: hoạt động của các doanh nghiệp lớn đóng trên địa bàn Thành phố Hà Nội; những khó khăn từ bản chất của doanh nghiệp nhỏ của tỉnh Bắc Ninh trong xu hướng kết hợp giữa truyền thống và phát triển hiện đại; khắc phục những hạn chế từ bản thân chính sách của nhà nước trung ương về thuế, tín dụng, đầu tư, đất đai,...
Trên địa bàn tỉnh, trước tiên cần hỗ trợ về đất đai. Mặt bằng sản xuất là yếu tố quyết định đến thực hiện dự án đầu tư. Không có mặt bằng sản xuất thì mọi sự tạo điều kiện thuận lợi ở trước đó trở nên vô nghĩa. Cần khắc phục tình trạng đang diễn ra: chi phí cơ hội để có được mặt bằng sản xuất lớn hơn nhiều chi phí hợp pháp để có quyền sử dụng mảnh đất đó. Thời gian qua, tỉnh đã đầu tư xây dựng 21 khu công nghiệp làng nghề và đa nghề giúp các doanh nghiệp dân doanh, trước hết ở khu vực làng nghề và các nơi có mật độ doanh nghiệp cao như thị xã Từ Sơn, thành phố Bắc Ninh có mặt bằng sản xuất. Trong thời gian tới cần bổ sung giải pháp tạo điều kiện thuận lợi cho các hộ sản xuất có đất nông nghiệp được thoả thuận chuyển nhượng tích tụ đất và chuyển sang đất sản xuất công nghiệp và dịch vụ theo quy hoạch. Áp dụng thí điểm tại các làng nghề chuyển mục đích sử dụng đất cho các hộ công nghiệp có đất sản xuất kinh doanh mà không cần bỏ thêm chi phí, các cấp chính quyền thúc đẩy được phát triển cả công nghiệp và nông nghiệp mà không nhất thiết phải bỏ thêm vốn đầu tư từ ngân sách.
Đồng thời hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp dân doanh, làng nghề cần tăng cường các hoạt động hỗ trợ xúc tiến đầu tư, xúc tiến thương mại, tôn vinh doanh nghiệp, tổ chức các quỹ trao thưởng cho các nhà doanh nghiệp giỏi, cấp giấy chứng nhận về nghệ nhân, thợ giỏi; hỗ trợ cho ra đời các hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp.
Bốn là, đẩy mạnh cải cách hành chính
Cải cách hành chính nhằm tăng cường hiệu lực quản lý Nhà nước, tăng cường trách nhiệm của các cấp, các ngành trong giải quyết và xử lý công việc, xoá bỏ dần các tầng nấc trung gian, nhiều đầu mối chồng chéo nhau, đơn giản hoá thủ tục, giấy tờ hành chính.
Thực hiện tốt chính sách một cửa trong thu hút đầu tư trong và ngoài nước, thành lập và đăng ký doanh nghiệp.
Khuyến khích và tạo tâm lý yên tâm đầu tư sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp.
Xây dựng và kiện toàn đội ngũ công chức, từng bước thực hiện tiêu chuẩn hoá theo tiêu chuẩn chức danh.
Năm là, tăng cường liên kết hợp tác với các tỉnh trong và ngoài vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ.
- Tăng cường liên kết với Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh … để thực hiện tốt cơ chế phối hợp có phân công, hợp tác cùng phát triển. Phối hợp cung ứng nguyên vật liệu và lao động, mở thị trường tiêu thụ, bảo vệ môi trường và gọi vốn đầu tư trong nước, nước ngoài.
- Đẩy mạnh các lĩnh vực hợp tác đã ký kết giữa Bắc Ninh và Hà Nội, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho ngành công nghiệp của hai địa phương phát triển, khai thác và tận dụng được tiềm năng và thế mạnh của từng địa phương.
- Hiện nay, cơ cấu sản phẩm công nghiệp của các tỉnh trong vùng có nhiều điểm giống nhau, nhiều sản phẩm công nghiệp hiện đang phải cạnh tranh gay gắt trong vùng. Do đó, cần có sự phối hợp với các địa phương để có thể xây dựng chiến lược phát triển các ngành công nghiệp cho tỉnh, phát huy được lợi thế so sánh với các tỉnh, giảm bớt thiệt hại cho xã hội.
3.4.2. Giải pháp đổi mới hoàn thiện quy trình hoạch định, tổ chức thực hiện và phân tích chính sách
Chính sách công nghiệp của Việt Nam đang chưa đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển trong bối cảnh quá trình hội nhập quốc tế diễn ra nhanh chóng. Phương pháp lập kế hoạch cũ xác định các mục tiêu số lượng cho các ngành công nghiệp và thậm chí là từng sản phẩm riêng biệt. Các mục tiêu đó thường là sản lượng, giá trị xuất khẩu, đầu tư mới, tỷ trọng cung nội địa, và tỷ lệ nội hóa. Những mục tiêu này dựa chủ yếu vào mong muốn của các nhà lãnh đạo hơn là các phân tích có tính khoa học, nhưng các cơ quan thực hiện phải đạt được các mục tiêu đó bằng bất cứ giá nào. Rõ ràng là phương pháp lập kế hoạch định lượng đã lỗi thời và cần phải được thay thế bằng một khung chính
sách mới. Sự cần thiết phải cải cách chính sách, nhưng những bước cụ thể để đạt được điều đó thì chưa được xác định.
3.4.2.1. Nâng cao khả năng hoạch định chính sách:
Hoạch định chính sách là một quá trình bao gồm một chuỗi các công việc liên hoàn (gọi là các bước hoạch định chính sách) sau: Một là, xác định và lựa chọn vấn đề cần đề ra chính sách. Hai là, xác định mục tiêu của chính sách. Ba là, xây dựng các phương án chính sách với các giải pháp, công cụ để thực hiện mục tiêu. Bốn là, lựa chọn phương án chính sách tối ưu. Năm là, thông qua và quyết định chính sách.
Để nâng cao khả năng hoạch định chính sách phát triển công nghiệp tại địa phương thời gian tới cần tập trung vào những vấn đề cơ bản như: xác định và lựa chọn vấn đề; phân tích mục tiêu, xác định công cụ chính sách; xây dựng các phương án chính sách. Trong đó việc xác định mục tiêu cần giao cho cơ quan chuyên môn nghiên cứu phân tích theo cách tiếp cận 3 giác độ, nhằm đánh giá đúng mức về vị thế, về nội lực, về các tác nhân, để từ đó đề ra mục tiêu điều chỉnh các chính sách cho phù hợp.
Quá trình đánh giá chính sách rất quan trọng, mà trong thực tế chưa được quan tâm đúng mức. Để có chính sách sát hợp với thực tiễn của địa phương cần thực hiện nghiêm việc đánh giá chính sách theo 6 tiêu chí cơ bản đã nêu. Thực hiện tốt các quá trình đó các chính sách đề ra chắc chắn phù hợp với thực tế, các mục tiêu phát triển công nghiệp của địa phương sẽ đạt được và góp phần tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế của địa phương.
3.4.2.2. Tổ chức triển khai có hiệu quả các chính sách:
Tổ chức thực thi chính sách công nghiệp có thể coi như một quá trình liên tục bao gồm 3 giai đoạn chính, còn gọi là 3 bước với các nội dung cụ thể như sau:
(1) Giai đoạn tổ chức, thường gọi là giai đoạn chuẩn bị triển khai chính sách. Nhiệm vụ của giai đoạn này là chuẩn bị về mặt tổ chức và cán bộ để triển khai chính sách.
(2) Giai đoạn chỉ đạo thực thi chính sách. Nhiệm vụ của giai đoạn này là triển khai chính sách, đưa chính sách vào thực tiễn.(3) Giai đoạn kiểm tra đối với quá trình tổ chức thực hiện chính sách. Nhiệm vụ của giai đoạn này là kiểm tra, theo dõi, phát hiện những vấn đề nảy sinh trong thực tế, duy trì chế độ báo cáo lên trên những thông tin về kết quả thực thi cũng như những vấn đề mới nảy sinh, từ đó có những biện pháp điều hành và điều chỉnh một cách phù hợp và kịp thời.
Việc điều chỉnh chính sách phải tuân thủ các nguyên tắc sau đây:
Điều chỉnh chính sách khi thật sự cần thiết, tức là khi không thể không điều chỉnh. Các cơ quan thực thi kể cả cơ quan cấp trên không được điều chỉnh một cách tuỳ tiện chủ quan ngẫu hứng, mà phải cân nhắc kỹ lưỡng trước khi điều chỉnh, tính hết hậu quả có thể có do việc điều chỉnh gây ra. Điều chỉnh trong nhiều trường hợp là cần thiết và hiệu quả nhưng nếu lạm dụng điều chỉnh quá nhiều thì lại làm mất tính ổn định và giảm sút lòng tin của cán bộ và nhân dân.
Chỉ điều chỉnh đúng mức độ cần điều chỉnh (về mục tiêu, phương hướng, cách làm, bộ máy tổ chức,…). Tránh điều chỉnh theo kiểu quán tính hay "phản ứng dây chuyền".
Chỉ điều chỉnh chính sách có thể diễn ra ở một số nội dung hoặc ở tất cả các giai đoạn của quá trình chính sách, dẫn đến có nhiều loại điều chỉnh khác nhau đối với một chính sách. Chẳng hạn, có thể điều chỉnh mục tiêu chính sách, điều chỉnh về tổ chức, hoặc có thể chỉ điều chỉnh giải pháp.
Các loại điều chỉnh gồm có:
Điều chỉnh mục tiêu cần đạt của chính sách: Đây là trường hợp trong giai đoạn hoạch định chính sách mục tiêu đặt ra chưa sát, chưa phù hợp (cao quá hoặc thấp quá so với khả năng thực tế), đến giai đoạn thực thi mới thấy rõ, đòi hỏi các cơ quan thực thi phải tính toán lại.
Điều chỉnh giải pháp, công cụ: Chính sách có thể kém hiệu lực và hiệu quả khi hình thành giải pháp, công cụ lựa chọn không đúng. Do đó, trong quá trình thực thi chính sách, khi các giải pháp, công cụ hình thức thực thi chính sách tỏ ra lỗi thời, không còn phù hợp, với hoàn cảnh mới, với những điều kiện kinh tế xã hội đã thay đổi thì chính phủ và các cơ quan tổ chức thực thi cũng phải điều chỉnh một cách kịp thời.
Phải điều chỉnh cơ quan thực thi trong trường hợp lúc đầu lựa chọn không đúng cơ quan chủ trì và các cơ quan phối hợp thực thi chính sách. Sai sót này là từ bước đầu tiên của giai đoạn tổ chức thực thi nhưng đến những bước sau mới bộc lộ đòi hỏi Nhà nước cần điều chỉnh, nếu như việc điều chỉnh đó còn kịp và thông qua tốn kém.
Điều chỉnh ngân sách cho việc thực thi chính sách: Đây là một thực tế thường xảy ra khi ban hành và đưa vào thực thi một chính sách. Do nhiều nguyên nhân, trên thực tế các chi phí cho việc thực thi một chính sách thường tăng lên so với dự kiến ban đầu. Do đó, trong nhiều trường hợp chính quyền cũng phải chấp nhận điều chỉnh ngân sách cho việc thực thi chính sách, bảo đảm việc thực thi không bị gián đoạn hoặc ảnh hưởng.
3.4.2.3. Tổng kết việc thực thi chính sách.
Việc tổng kết thực thi chính sách là bước cuối cùng của giai đoạn thực thi chính sách: nhằm đánh giá lại toàn bộ ý đồ và tiến trình triển khai chính sách. Việc tổng kết phải đáp ứng các yêu cầu sau:
- Đánh giá cái được của chính sách, trên tất cả các phương diện: Vật chất, ý đồ chính trị, thói quen, tập quán xã hội, các đối tượng được hưởng lợi do chính sách đem lại… điều này liên quan tới hai chỉ tiêu ở trên (hiệu lực và hiệu quả của chính sách).
- Đánh giá cái mất mà chính sách đưa lại: Đó là những hạn chế, tiêu cực những mâu thuẫn xã hội mà chính sách không thể né tránh khi thực hiện chính sách. Đặc biệt phải phân tích kỹ: (1)Tiến độ và hình thức thực hiện chính sách là tốt hay xấu? (2)Cơ quan chủ trì chính sách là đúng hay không đúng? (3)Có những tiêu cực nào xẩy ra, mức độ và cách né tránh nếu biết trước?
- Đánh giá các tiềm năng chưa được huy động: Đây cũng là một yêu cầu của việc tổng kết thực thi chính sách: đó là thiếu sót về khâu tổ chức đã bỏ quên một số tiềm năng (sức người, sức của, các cơ quan, tổ chức, cá nhân,…) mà lẽ ra khi thực hiện chính sách có thể đưa vào sử dụng. Khi phân tích đánh giá với cách tiếp cận 3 giác độ một cách kỹ lưỡng thì sẽ tránh được những sai sót này.
Việc tổng kết thực hiện chính sách phải được tổ chức khoa học, khách quan với chi phí ít nhất và nó thường được giao cho một tổ chức chuyên trách thực hiện.
Việc kiến nghị nếu thấy cần thiết có thể đưa ra đối với Nhà nước, đối với cơ quan hoạch định chính sách hoặc đối với cơ quan thực thi.
Việc thực thi chính sách có thể kết thúc khi các mục tiêu cụ thể đề ra trong một thời hạn nhất định được hoàn thành. Khi đó các cơ quan thực thi chính sách được coi là đã hoàn thành các nhiệm vụ được giao.
Chính sách công nghiệp cũng có thể được tiếp tục duy trì nếu những mục tiêu chính sách đặt ra là những mục tiêu thường xuyên hoặc lâu dài của xã hội.
3.4.2.4. Công tác cán bộ trong hoạch định và thực thi chính sách
Con người là nhân tố quyết định của mọi quá trình sản xuất, là động lực thúc đẩy sản xuất phát triển. Trong mọi phương thức sản xuất con người đều đóng vai trò tổ chức quản lý và điều hành mọi hoạt động của quá trình sản xuất xã hội. Cán bộ là bộ phận tiên tiến của lực lượng lao động sản xuất, có trình độ văn hoá và kiến thức nhất định, có khả năng tổ chức và điều hành sản xuất. Đội ngũ cán bộ này bao gồm 2 bộ phận: cán bộ ở cấp lãnh đạo, chỉ đạo và cán bộ cơ sở.
Ở cấp lãnh đạo, chỉ đạo địa phương họ là người đề ra phương hướng, biện pháp xây dựng các mô hình tổ chức sản xuất, là những người quyết định sự phát triển của khoa học kỹ thuật, quản lý kinh tế cũng như ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật mới vào sản xuất.
Ở cấp cơ sở: họ là những người trực tiếp tổ chức, hướng dẫn người lao động thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước, ra sức phát triển sản xuất kinh doanh để thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước đề ra.
Trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, đòi hỏi phải có một đội ngũ cán bộ có trình độ văn hoá cần thiết được trang bị đầy đủ kiến thức về quản lý kinh tế kỹ thuật và quản trị kinh doanh, có khả năng điều hành sản xuất. Muốn vậy, đội ngũ cán bộ ấy phải được đào tạo, bồi dưỡng theo một hệ thống trường lớp. Chính vì vậy chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cơ sở là một vấn đề có ý nghĩa quyết định trong việc thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội và triển khai các chính sách kinh tế.
Nhận thức được vai trò của đội ngũ cán bộ này nên từ trước đến nay Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến việc đào tạo, đội ngũ cán bộ đông đảo về số lượng và có trình độ kiến thức. Tuy nhiên, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong những năm qua còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được cho yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Để khắc phục những tồn tại trong công tác đào tạo cán bộ, Nhà nước cần tập trung giải quyết các mặt:
- Tăng cường đầu tư cho các trường như trường đào tạo bồi dưỡng cán bộ tỉnh và trường cán bộ quản lý của các bộ, ngành để ngoài nhiệm vụ đào tạo thường xuyên các trường còn có nhiệm vụ mở các lớp bồi dưỡng ngắn ngày (1 tuần, 1 tháng) cho cán bộ cơ sở theo các chuyên đề.
- Quy định nội dung bồi dưỡng tập trung chủ yếu vào các vấn đề thông tin kịp thời chủ trương, chính sách, kinh nghiệm thực tế trong tổ chức sản xuất kinh doanh, phổ biến rộng rãi, nhanh chóng những tiến bộ kỹ thuật mới, bồi dưỡng thêm những kiến thức cơ bản về kinh tế thị trường, marketing, hợp đồng kinh tế,... giúp đội ngũ cán bộ cơ sở có điều kiện và khả năng hướng dẫn giúp đỡ nhân dân sản xuất kinh doanh theo cơ chế mới.
- Có chính sách sử dụng hợp lý, đúng đắn đội ngũ cán bộ được đào tạo và bồi dưỡng, tạo điều kiện cho họ sinh sống và làm việc, phục vụ tốt hơn, tránh tình trạng đào tạo ra nhưng không sử dụng.
- Hình thức đào tạo có thể đào tạo tập trung, tại chức, đào tạo bồi dưỡng theo chuyên đề, sinh hoạt câu lạc bộ, hội thảo, thông tin khoa học, mở lớp tập huấn dưới dạng phổ biến kiến thức khuyến nông, trao đổi kinh nghiệm, hướng dẫn cách làm ăn theo mô hình,... để phát huy tính chủ động sáng tạo, tìm tòi học hỏi của các học viên.
Chỉ có làm tốt các vấn đề trên chúng ta mới hy vọng có một đội ngũ cán bộ cơ sở có trình độ chuyên môn tốt phục vụ cho yêu cầu phát triển công nghiệp tỉnh Bắc Ninh.
3.5. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT VÀ KIẾN NGHỊ
Phát triển công nghiệp có vai trò rất quan trọng, thể hiện đường lối nhất quán của Đảng và Nhà nước ta sớm đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển và xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp phát triển theo hướng hiện đại.
Tiến trình phát triển công nghiệp tỉnh Bắc Ninh chính là cụ thể hoá thực hiện đường lối của Đảng và Nhà nước vừa đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Với sự nỗ lực của các cấp chính quyền và nhân dân, tỉnh Bắc Ninh đã thu được những kết quả đáng khích lệ: chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ, hiện đại hoá; phát triển và chuyển dịch cơ cấu trong nội bộ từng ngành, lĩnh vực; phát triển kinh tế đối ngoại,… Nhờ đó, đời sống của nhân dân trong tỉnh ngày càng được cải thiện và được nâng cao, chỉ tiêu GDP bình quân đầu người cao hơn mức trung bình cả nước.
Tuy vậy, tiến trình phát triển công nghiệp của tỉnh có không ít hạn chế, khó khăn như chưa phát huy được hết tiềm năng, lợi thế để phát triển kinh tế - xã hội và phát triển công nghiệp, trong đó đặc biệt phát huy nội lực của nền kinh tế, sự lan toả hoạt động đầu tư của ngoại lực, sự phối hợp và gắn kết giữa nội lực và ngoại lực chưa được như mong muốn.
Để có thể thực hiện thành công sự nghiệp phát triển công nghiệp, phấn đấu đến năm 2015, Bắc Ninh về cơ bản trở thành một tỉnh công nghiệp, dưới đây là một số kiến nghị với các cơ quan chức năng một số vấn đề:
3.5.1. Với Trung ương và Chính phủ
(1)- Mô hình quản lý các KCN, KKT: Việc xây dựng và phát triển các KCN là chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta đã được chứng minh qua thực tiễn hơn 15 năm qua, nó đã góp phần quan trọng trong quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Trước yêu cầu của mở cửa hội nhập, chúng ta đang tạo môi trường đầu tư thực sự thông thoáng để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài, khuyến