triển ngành nghề, sản phẩm công nghiệp của tỉnh lấp đầy ngay diện tích khi hoàn thành xây dựng cơ sở hạ tầng. Hoàn thiện các khu công nghiệp tập trung một các thông thoáng, khoa học, tiên tiến đáp ứng ngày càng tốt hơn cho quá trình kinh tế hội nhập. Giải quyết tốt vấn đề ô nhiễm môi trường. Tiếp tục nghiên cứu quy hoạch thêm một số khu công nghiệp mới .
(5)- Phát triển khu CN làng nghề, cụm CN vừa và nhỏ.
Đi đôi với việc xây dựng KCN tập trung, đồng thời trên cơ sở hoàn thiện và phát triển 25 KCN làng nghề và cụm công nghiệp vừa và nhỏ hiện có, đến năm 2010, Bắc Ninh cần hoàn thiện quy hoạch xây dựng các khu công nghiệp làng nghề và cụm công nghiệp vừa và nhỏ ở các huyện, có quy mô từ 5-20 ha, thu hút những cơ sở sản xuất vừa và nhỏ.
Quy hoạch mở rộng và quy hoạch mới các KCN làng nghề, cụm công nghiệp để đến 2010 trên địa bàn tỉnh cần có 54 khu với tổng diện tích 1.780,2 ha, tạo điều kiện thu hút các doanh nghiệp vừa và nhỏ của địa phương đầu tư phát triển, giải quyết việc làm cho người lao động ở vùng nông thôn, thực hiện đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn trên địa bàn.
Công nghiệp đầu tư rời: dự kiến quy hoạch gần 118,5 ha diện tích đất cho các dự án đầu tư rời trên địa bàn 8 huyện, thành phố, thị xã đến năm 2010, ở những nơi gần vùng nguyên liệu, các dự án chế biến các sản phẩm từ nông nghiệp.
3.2.2. Quan điểm hoàn thiện chính sách phát triển công nghiệp tỉnh Bắc Ninh
3.2.2.1. Chính sách phát triển công nghiệp nhằm tạo nên sản phẩm hàng hoá có giá trị gia tăng cao
Đối với các ngành công nghiệp sản xuất hàng hóa ngoài việc khuyến khích các sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao, mang lợi nhiều lợi ích hướng tới xuất khẩu, cần tạo ra các sản phẩm mũi nhọn của địa phương như: điện tử, tin học, cơ khí chế tạo, chế biến vật liệu mới,...
Tại Việt Nam nói chung, tỉnh Bắc Ninh nói riêng, hầu hết các hoạt động kinh tế ở nông thôn có xu hướng tập trung vào giai đoạn đầu của chuỗi kinh tế này (sơ chế). Giai đoạn sau của chuỗi (như chế biến, chế biến sâu, bán buôn, xuất khẩu hoặc vận tải) thường diễn ra ở các thị trấn, thành phố hoặc cảng lớn. Do đó, nhiều doanh nghiệp ở nông thôn, và đặc biệt là người nông dân, có thể
Có thể bạn quan tâm!
- Chính Sách Phát Triển Nguồn Nhân Lực
- Chính sách phát triển công nghiệp tại địa phương nghiên cứu áp dụng với tỉnh Bắc Ninh - 17
- Định Hướng Phát Triển Công Nghiệp Tỉnh Bắc Ninh Đến Năm 2015 Và Tầm Nhìn 2020
- Tạo Nguồn Vốn Cho Phát Triển Công Nghiệp
- Chính sách phát triển công nghiệp tại địa phương nghiên cứu áp dụng với tỉnh Bắc Ninh - 21
- Công Tác Cán Bộ Trong Hoạch Định Và Thực Thi Chính Sách
Xem toàn bộ 216 trang tài liệu này.
chỉ nhận được giá cơ sở cho những sản phẩm đầu tiên, trong khi giá trị gia tăng có thể chủ yếu chỉ xảy ra ở khâu sau.
Nếu muốn kinh tế ở nông thôn mạnh lên, hay công nghiệp trong nước phát triển phải giữ nhiều mắt xích trong chuỗi kinh tế ở trong nước. Bằng cách này, sẽ tăng thêm giá trị cho hàng hóa và dịch vụ ở chính vùng nông thôn, hoặc trong nước thay cho việc xảy ra ở nước khác chúng ta khi xuất khẩu nông, lâm sản thô hoặc các sản phẩm sơ chế.
3.2.2.2. Chính sách phát triển công nghiệp trên cơ sở huy động mọi nguồn lực, mọi thành phần kinh tế
Để khắc phục tình trạng tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các tỉnh, thành phố, tiến tới đuổi kịp mức thu nhập bình quân đầu người trung bình của cả nước vào năm 2010, hoạt động phát triển công nghiệp ở tỉnh Bắc Ninh phải được đẩy mạnh trên cơ sở huy động sức mạnh của các thành phần kinh tế nhằm nâng cao tốc độ tăng trưởng và tạo ra sự phát triển mới. Cùng với việc khai thác tiềm năng về vốn của các doanh nghiệp và các hộ dân cư trên địa bàn tỉnh, cần tăng cường các biện pháp thu hút vốn phát triển công nghiệp từ bên ngoài. Bên cạnh việc xúc tiến, thu hút vốn phát triển công nghiệp nước ngoài, chú trọng thu hút các doanh nghiệp trong nước thuộc mọi thành phần kinh tế phát triển công nghiệp vào tỉnh, nhằm tăng cường nguồn vốn phát triển công nghiệp ổn định, đáp ứng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm và trong cả thời kỳ, thực hiện chủ trương phát huy nội lực theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X.
Đồng thời, hoạt động phát triển công nghiệp phải hướng vào mục tiêu thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá trên địa bàn tỉnh. Không thể tách rời công nghiệp hoá với hiện đại hoá trong điều kiện khoa học, công nghệ đang phát triển với tốc độ cao. Ngoài ra, nếu chỉ nói hiện đại hoá thì vẫn chưa đủ để phản ánh hết quá trình phát triển đa dạng ở nước ta dựa trên sự kết hợp các phương thức sử dụng và thế hệ công nghệ, trình độ kỹ thuật khác nhau.
Quá trình này cũng đặt ra yêu cầu phát triển bền vững. Do vậy việc thực hiện phát triển công nghiệp trong từng dự án cũng như trên phạm vi xã hội cần hướng vào mục tiêu đó, kết hợp giữa phát triển công nghiệp sử dụng ít vốn, nhiều lao động, giải quyết việc làm và phát triển công nghiệp công nghệ cao, mũi nhọn theo phương thức đón đầu trong tương lai, tiếp cận nền kinh tế tri thức.
Đối với tỉnh Bắc Ninh, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo định hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá có ý nghĩa to lớn đối với phát triển. Để tăng nhanh tích luỹ vốn phát triển công nghiệp từ nội bộ nền kinh tế, cần chuyển
dịch cơ cấu kinh tế ngay từ nội bộ ngành nông nghiệp, phát triển công nghiệp vừa và nhỏ, dịch vụ, nâng cao thu nhập của dân cư khu vực nông thôn.
Để phát triển công nghiệp, thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tiếp cận nền kinh tế tri thức, đáp ứng yêu cầu hội nhập bao giờ cũng bao gồm phát triển công nghiệp đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài một cách có hệ thống. Trên địa bàn các tỉnh đang thu hút nhiều dự án phát triển công nghiệp sản xuất công nghiệp nhưng còn xảy ra tình trạng thiếu lao động lành nghề để đáp ứng yêu cầu cho các nhà máy này.
Một thực tế khác cũng đã xảy ra là: mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế luôn được các cấp chính quyền đặt ra nhưng nội dung còn chung chung và thiếu biện pháp thực hiện. Điều đó cũng có nghĩa là nội dung chuyển dịch cơ cấu kinh tế không cụ thể với phạm vi phát triển của địa bàn do cấp chính quyền quản lý.
Do vậy, cần thấu suốt quan điểm này để có chương trình và lựa chọn những lĩnh vực phát triển công nghiệp ưu tiên theo từng cấp quản lý cụ thể: tỉnh, huyện, xã nhằm đạt được mục tiêu chung.
3.2.2.3. Chính sách phát triển công nghiệp phải phù hợp với định hướng quy hoạch phát triển vùng
Trong thời kỳ bao cấp, sự chia cắt và khép kín trong phát triển công nghiệp phát triển ở các địa phương đã để lại những tồn tại lớn. Mặc dù qua nhiều năm khắc phục, đổi mới, sắp xếp doanh nghiệp nhà nước nhưng đến nay, những hậu quả này vẫn chưa giải quyết xong.
Bước vào thời kỳ đổi mới, tình trạng cát cứ hành chính trong phát triển công nghiệp của các doanh nghiệp vẫn tiếp tục xảy ra. Sự chia cắt giữa các lực lượng kinh tế "Trung ương" và "địa phương"; sự khép kín trong cơ cấu kinh tế của một tỉnh, không dựa theo quy hoạch phát triển vùng vẫn chưa có biện pháp khắc phục đầy đủ. Thời gian qua, khi đánh giá việc thực hiện quy hoạch, các nhà kinh tế đều nêu lên tồn tại này và cho đó là một nguyên nhân gây lãng phí tiền của và các nguồn lực phát triển công nghiệp của Nhà nước cũng như toàn xã hội.
Sự khép kín trên địa bàn đang xảy ra ở các tỉnh trong hoạt động phát triển công nghiệp thường được gắn với biểu hiện "phát triển công nghiệp theo phong trào", phát triển công nghiệp mang tính "cơn sốt". Nhiều địa phương cùng phát triển công nghiệp vào một loại sản phẩm và diễn ra trong thời gian gần nhau, thậm chí cùng được thực hiện bởi một tổ chức tư vấn. Trong nhiều trường hợp, hoạt động phát triển công nghiệp đã xem xét thị trường khép kín trong từng địa bàn hành chính. Với những sai lầm này, một số nhà máy công nghiệp đã được ra đời một cách thiếu tính
toán hiệu quả kinh tế. Hiện nay, có những doanh nghiệp hết sức khó khăn, thậm chí "đủ điều kiện" phá sản sau vài năm hoạt động.
Do vậy, trong những năm tới, hoạt động phát triển công nghiệp trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh phải quán triệt quan điểm phát triển công nghiệp trên địa bàn, không phân biệt thành phần kinh tế, kinh tế "Trung ương" và "địa phương", tuân theo quy hoạch phát triển vùng, có sự phối hợp chặt chẽ với các tỉnh xung quanh. Chính quyền tạo ra chính sách, hỗ trợ và thu hút phát triển công nghiệp, hạn chế việc can thiệp hành chính vào hoạt động phát triển công nghiệp sản xuất, kinh doanh.
3.2.2.4. Chính sách phát triển công nghiệp phải gắn với thị trường tiêu thụ trong nước và xuất khẩu
Phát triển công nghiệp tỉnh Bắc Ninh trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh để đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng và có mức tăng trưởng "bứt phá", vượt trội so với mức tăng trưởng chung của cả nước và vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ.
Hiện nay, trong điều kiện hội nhập quốc tế, với lợi thế đi sau, nước ta đang thực hiện lộ trình phát triển rút ngắn. Nằm trong khu vực năng động, có nhiều tiềm năng của đất nước, với những lợi thế mới, công nghiệp trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh cần và có thể thực hiện thành công mô hình phát triển rút ngắn. Tuy nhiên, kinh nghiệm quốc tế cũng đã chỉ ra rằng, không thể áp dụng quan điểm "tăng trưởng trước, khắc phục hậu quả sau". Mặc dù theo quan điểm này thì "tăng trưởng là con đường duy nhất để giảm nghèo, rút ngắn quá trình phát triển" và những tổn thất do tăng trưởng "có thể được cứu vãn khi nền kinh tế bước vào thời kỳ thịnh vượng"
[40] nhưng vẫn bị phê phán kịch liệt.
Quan điểm phát triển bền vững trong phát triển công nghiệp - xã hội cần được thể hiện đầy đủ trong việc đề ra định hướng và giải pháp phát triển công nghiệp của tỉnh Bắc Ninh. Điều đáng lưu ý là giữa mục tiêu tăng tốc trong phát triển và yêu cầu phát triển bền vững không phải bao giờ cũng vận động cùng hướng. Do đó, trong mỗi giai đoạn phát triển cần kết hợp giữa các mục tiêu một cách hợp lý và đó cũng là cơ sở để lựa chọn các giải pháp với sự tính toán về lợi ích và chi phí. Phát triển công nghiệp tỉnh Bắc Ninh bền vững phải được thể hiện trên cả các phương diện kinh tế, môi trường và xã hội. Về phương diện kinh tế, phải tạo ra sự gia tăng liên tục khối lượng giá trị hàng hoá, nhưng tránh được sự mất cân đối giữa các khu vực làm tổn hại đến ngành sản xuất chủ yếu. Về phương tiện môi trường, cần duy trì một nền tảng nguồn lực ổn định đầu tư cho môi trường, đảm bảo cân bằng sinh thái, khắc phục ngay các khu vực suy thoái về môi trường; quy hoạch phát triển phát triển công nghiệp tỉnh Bắc Ninh đảm bảo những yêu cầu về môi
trường. Về mặt xã hội, phát triển phát triển công nghiệp tỉnh Bắc Ninh vững phải tăng cơ hội việc làm, khả năng sáng tạo nghề nghiệp và đảm bảo phân phối công bằng. Xét về tổng thể việc phát huy lợi thế so sánh phát triển công nghiệp tỉnh Bắc Ninh thực hiện mô hình phát triển rút ngắn, đẩy mạnh công nghiệp hoá, đô thị hoá hướng tới hiện đại hoá, trong quá trình phát triển của từng giai đoạn chú trọng tới các yêu cầu phát triển bền vững.
3.2.2.5. Chính sách phát triển công nghiệp trên cơ sở ứng dụng các tiến bộ khoa học công nghệ
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quan điểm, định hướng và giải pháp xuyên suốt trong đường lối phát triển, nhằm đưa nước ta cơ bản thành nước công nghiệp vào năm 2020.
Đối với nước ta, quá trình phát triển cho thấy, không thể tách rời công nghiệp hoá với hiện đại hoá trong điều kiện khoa học, công nghệ đang phát triển với tốc độ cao. Đồng thời, nếu chỉ nói hiện đại hoá thì vẫn chưa đủ để phản ánh hết quá trình phát triển đa dạng ở nước ta dựa trên sự kết hợp các phương thức sử dụng và thế hệ công nghệ, trình độ kỹ thuật khác nhau. Tuy nhiên, với vai trò, vị trí quan trọng, đặc thù của tỉnh Bắc Ninh trong xu thế phát triển mới thì không chỉ nhấn mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá mà phải chỉ rõ hiện đại hoá là mục đích của chiến lược công nghiệp hóa với sự phát triển tăng tốc, rút ngắn, bền vững, có nghĩa là làm sao để hướng tới mục tiêu hiện đại hoá một cách nhanh nhất và hơn thế nữa, hiện đại hoá một cách bền vững, nhằm đổi mới quy trình sản xuất, thiết bị theo hướng tiên tiến, hiện đại; tăng cường các loại hình chế biến sâu, đa dạng hoá sản phẩm để nâng cao chất lượng và khả năng cạnh tranh của nông sản, thực phẩm chế biến. Phát huy lợi thế so sánh phát triển công nghiệp tỉnh Bắc Ninh cũng phải đặt trên quan điểm này.
3.2.2.6. Chính sách phát triển công nghiệp cần khắc phục bất lợi thế và tạo ra lợi thế so sánh mới trên quan điểm hiệu quả
Như hai mặt bắt buộc song song tồn tại, nơi nào có lợi thế so sánh thì cũng đi kèm với bất lợi thế so sánh nào đó khác, thậm chí qua thời gian thì lợi thế so sánh cũng có thể chuyển hoá thành bất lợi thế so sánh. Việt Nam đang có những lợi thế tạm thời so với quốc gia khác nhờ giá nhân công thấp. Tuy nhiên, trong thời gian tới, sự gia tăng tiền lương sẽ làm cho lợi thế này sẽ mất dần. Sự tăng trưởng của Việt Nam trở nên thiếu bền vững về mặt dài hạn nếu các chính sách hiện hành không được đổi mới một cách tích cực, mặc dù các chính sách đó vẫn có thể mang lại tốc độ tăng trưởng cao trong một vài năm
tới. Đó là lý do tại sao Việt Nam vẫn chỉ được xếp hạng thấp về năng lực cạnh tranh mặc dù có tốc độ tăng trưởng cao.
Đối với tỉnh Bắc Ninh, những yếu tố trên cũng ảnh hưởng rất lớn đến phát triển công nghiệp. Do phát huy yếu tố vị trí thuận lợi, trong thời gian qua thu hút vốn đầu tư trong nước từ bên ngoài vào một số tỉnh khá mạnh mẽ. Cùng với những sửa đổi, bổ sung về chính sách đất đai, cũng như do chưa hình thành được thị trường bất động sản đầy đủ, chi phí về đất đai đã tăng lên nhanh chóng, bồi thường, giải phóng mặt bằng khó khăn đã ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư sản xuất, song xu hướng đầu tư bất động sản lại tăng mạnh, có thể chứa đựng những dấu hiệu bất ổn định trong tương lai.
Lợi thế so sánh được biến đổi theo thời gian, do vậy việc phát huy lợi thế so sánh phát triển phát triển công nghiệp tỉnh Bắc Ninh cũng đồng thời phải có tác động đến hình thành, tạo lập, phát huy lợi thế so sánh mới trong thời gian tới. Thực hiện được điều này mới duy trì được tốc độ tăng trưởng cao trong thời gian dài theo mô hình phát triển rút ngắn và đảm bảo phát triển bền vững. Nếu không khai thác hiệu quả phát triển kinh tế với hình thành các đô thị và phát triển các ngành sản xuất và dịch vụ có hàm lượng chất xám cao thì lợi thế so sánh trên địa bàn tỉnh trong thời gian tới có thể giảm đi.
Nằm trong khu vực năng động về phát triển công nghiệp, tỉnh Bắc Ninh cần chú trọng khai thác lợi thế so sánh động thông qua phát huy yếu tố con người, thu hút và sử dụng nhân tài, nhanh nhạy trong chính sách để tận dụng được những cơ hội, lợi thế mới.
Phát huy lợi thế so sánh nhằm nâng cao tốc độ tăng trưởng và đẩy mạnh phát triển phát triển công nghiệp tỉnh Bắc Ninh cần được dựa trên tiêu chuẩn xuyên suốt là hiệu quả kinh tế, hiệu quả kinh tế - xã hội trong những trường hợp cụ thể. Nếu không chú trọng mặt xã hội, chỉ đơn thuần chạy theo lợi ích kinh tế sẽ không đảm bảo tính bền vững trong phát triển và đến một lúc nào đó, tăng trưởng kinh tế sẽ đình đốn. Nhưng nếu quá chú trọng đến yếu tố xã hội, không xác định ranh giới về hiệu quả kinh tế sẽ khó đem lại tốc độ tăng trưởng cao.
Về bản chất, lợi thế so sánh chỉ được duy trì và phát huy dựa trên cơ sở những tiêu chuẩn hiệu quả, kể cả tầm vĩ mô cũng như trong sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp phát triển công nghiệp tỉnh Bắc Ninh. Ở tầm vĩ mô phải duy trì và nâng cao yếu tố tổng năng suất nhân tố trong đóng góp vào tăng trưởng và chỉ số cạnh tranh của nền kinh tế. Đồng thời, tín hiệu về lợi thế so sánh phải được chuyển thành tín hiệu về hiệu quả trong đầu tư, kinh doanh của
doanh nghiệp phát triển công nghiệp tỉnh Bắc Ninh, chứ không chỉ do cơ quan nhà nước xác định. Cần tạo lập cơ chế, chính sách huy động sức mạnh của mọi thành phần kinh tế để khai thác lợi thế so sánh, trên cơ sở môi trường đầu tư lành mạnh, an toàn, hấp dẫn, có tính cạnh tranh.
3.3. HOÀN THIỆN CÁC CHÍNH SÁCH CHỦ YẾU PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP TỈNH BẮC NINH
Trên cơ sở các chính sách đã ban hành; căn cứ và các mục tiêu nhiệm vụ trong chiến lược phát triển công nghiệp đã đề ra; căn cứ vào tình hình thực tế, những cơ hội và các khó khăn thách thức đang tác động tới sự phát triển của tỉnh, cần thiết rà soát, điều chỉnh, nhằm hoàn thiện các chính sách phát triển công nghiệp của tỉnh Bắc Ninh như sau:
3.3.1. Chính sách đầu tư phát triển công nghiệp
3.3.1.1. Rà soát, điều chỉnh quy hoạch tổng thể phát triển công nghiệp đến năm 2015 và tầm nhìn 2020.
Mặc dù trong những năm qua tỉnh sớm quan tâm tới quy hoạch phát triển công nghiệp, nhưng nhìn chung chất lượng quy hoạch thấp, chưa đánh giá đầy đủ lợi thế so sánh, các phương án phát triển đưa ra cứng nhắc, thiếu tính kích thích năng động, sáng tạo, tạo khả năng bứt phá trong phát triển; các chính sách, giải pháp thực hiện quy hoạch còn chung chung, thiếu sự vận dụng cụ thể cơ chế, chính sách của Nhà nước để huy động các nguồn lực đảm bảo thực hiện thành công quy hoạch. Quy hoạch trong thời gian qua còn thiếu cụ thể về định hướng tổ chức không gian kinh tế - xã hội và đô thị trong mối quan hệ với vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và Thủ đô Hà Nội. Để tạo cơ sở trong quản lý, điều hành phát triển công nghiệp tỉnh Bắc Ninh nhằm phát huy lợi thế so sánh, dẫn dắt nỗ lực phát triển một cách cao nhất, giải pháp đầu tiên là rà soát, điều chỉnh quy hoạch tổng thể phát triển công nghiệp và quy hoạch không gian kinh tế, đô thị đến năm 2015 vói tu duy, phương pháp và nội dung mới.
Với mục tiêu phát triển kinh tế tỉnh Bắc Ninh theo mô hình phát triển rút ngắn trong điều kiện hội nhập, trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh đã xác định, cần rà soát, điều chỉnh và tạo ra chuyển biến mới trong quy hoạch tổng thể phát triển công nghiệp. Để quy hoạch đáp ứng tầm nhìn trong chiến lược phát triển cần xác định đầy đủ yếu tố về điểm xuất phát, khó khăn, thuận lợi, cơ hội, thách thức, đặc biệt là xác định lợi thế so sánh.
Theo hướng phát huy lợi thế so sánh, quy hoạch phát triển công nghiệp của tỉnh Bắc Ninh cần phải được đổi mới về chất để đáp ứng các yêu cầu sau đây:
- Về mục tiêu của phát triển: Tăng tốc, hiện đại hoá và hướng tới phát triển bền vững.
- Về phương thức phát triển: Mô hình lựa chọn là mô hình phát triển rút ngắn; yếu tố nội sinh là lợi thế so sánh; yếu tố bên ngoài là hội nhập.
- Về phương pháp thực hiện: Quy trình kế hoạch hoá chiến lược mới bao gồm các thành phần: Tầm nhìn, bối cảnh sứ mệnh của tổ chức thực hiện quyền lãnh đạo để đạt được mục tiêu, sứ mệnh của cộng đồng dân cư và doanh nghiệp. Tăng cường vai trò của cộng đồng doanh nghiệp và dân cư trong tham gia và tiến hành công khai khi quy hoạch được phê duyệt, không hạn chế doanh nghiệp tham gia thị trường.
- Về con đường phát triển: Kết hợp chặt chẽ giữa công nghiệp hoá và đô thị hoá để tiến nhanh tới hiện đại hoá.
- Về yếu tố đảm bảo để thực hiện thành công con đường phát triển: chính sách, giải pháp phát huy lợi thế so sánh; khắc phục bất lợi thế.
Với những nội dung cơ bản về đổi mới quy hoạch phát triển nêu trên, tỉnh rà soát, điều chỉnh quy hoạch tổng thể phát triển công nghiệp đến năm 2015, làm rõ con đường, nội dung, đặc trưng, điều kiện để đưa tỉnh Bắc Ninh thành tỉnh công nghiệp vào năm 2015 với những định hướng phát triển trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh theo từng yếu tố, từng ngành cũng như lợi thế so sánh tổng hợp được tạo ra từ cơ cấu ngành và không gian kinh tế năng động, khả năng hội tụ các yếu tố đẩy nhanh quá trình tụ hội đô thị.
Quy hoạch tổng thể cần được triển khai cụ thể thông qua quy hoạch không gian kinh tế và đô thị, đồng bộ với hệ thống hạ tầng với khả năng dự báo có độ chính xác cao tránh chủ quan, máy móc. Đi kèm với quy hoạch là nghiên cứu, ban hành cơ chế, chính sách nhằm thực hiện được mục tiêu của quy hoạch; tăng cường phân cấp quản lý và làm rõ nhiệm vụ, quyền hạn của các cấp quản lý.
Đổi mới công tác quy hoạch trên địa bàn tỉnh, cần hướng vào mục tiêu xây dựng Bắc Ninh thành vùng có sức cạnh tranh cao so với các yếu tố sau:
- Xác lập cơ cấu kinh tế và không gian phát triển theo hướng mở, liên kết chặt chẽ trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và vùng thủ đô Hà Nội, bao gồm cả quá trình tái cơ cấu công nghiệp, chức năng đô thị và dịch vụ. Tạo mối quan hệ hài hoà trong phát triển công nghiệp, dịch vụ và nông nghiệp theo hướng bền vững, tiến tới hình thành vùng đô thị đặc trưng trên địa bàn toàn khu vực Bắc Ninh sau năm 2015. Hướng phát triển như vậy sẽ không bó buộc trong việc xây dựng thành phố, thị xã, thị trấn thuộc tỉnh mang tính thứ bậc theo kiểu tổ chức không gian đô thị truyền thống. Cần kiến tạo không gian kinh tế và đô thị mở, hiện đại, mang đậm nét văn hoá xứ Kinh Bắc. Để làm được điều này cần huy động đội ngũ chuyên gia giỏi, kể cả thuê