Quan Điểm Của Đảng Ta Về Phân Phối Thu Nhập Cá Nhân Từ Khi Tiến Hành Đổi Mới Đến Nay

trường, tại đây xác định số lượng lao động cần sử dụng và mức tiền công cân bằng có tính cạnh tranh (tiền công thị trường).

Nếu hạn chế mức cung lao động so với sự gia tăng các yếu tố sản xuất khác thì nhất định mức tiền công sẽ tăng lên. Còn với các điều kiện khác như nhau, việc tăng cung về lao động sẽ nảy sinh xu hướng giảm tiền công. Đối với cầu lao động, nếu cầu về lao động giảm xuống sẽ khiến tiền lương giảm theo; ngược lại, nếu cầu về lao động tăng lên thì cũng khiến tiền lương tăng lên theo.

Đồ thị: Mức tiền công tương đối trên thị trường lao động

Tiền công (W)

S1

Wo

E

D1

Lo Lao động (L)


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 135 trang tài liệu này.

Các nhà kinh tế học trường phái chính hiện đại quan tâm đến tiền công thực tế, tức là đến những thứ mua được với số tiền công đó, chứ không phải chỉ quan tâm đến số tiền người làm công nhận được (hay tiền công danh nghĩa). Theo họ, tiền công thực tế (Wr) bằng mức lương thực tế tính bằng tiền (Wn) chia cho chỉ số về mức giá chung (P).

Wr = Wn / P

Chính sách phân phối thu nhập cá nhân ở Việt Nam - 3

Theo họ, mức tiền công thực tế khác nhau trước hết là do hoạt động của lượng cung và lượng cầu về lao động, tiếp đến là do sự biến đổi của các yếu tố đầu vào khác cùng hoạt động như tư bản (vốn), tài nguyên và đặc biệt là trình độ, chất lượng lao động (trình độ tay nghề, đào tạo, học vấn và kinh nghiệm của người lao động). Sự chênh lệch tiền công giữa các nhóm lao động là cần thiết để lôi kéo lao

động vào các nghề "kém hấp dẫn" hoặc "không thích thú", đó là "sự chênh lệch có tính chất bù trừ". Tuy nhiên, sự chênh lệch này không phải là hoàn toàn cố định. Trong quá trình vận động của cuộc sống, con người có xu hướng chuyển sang các công việc được trả công cao và bỏ những nghề có tiền công thấp hơn, làm cho mức tiền công chung của toàn xã hội có xu hướng dịch chuyển về một mức cân bằng chung, là điểm giao nhau giữa tổng cung và tổng cầu lao động toàn xã hội.

Bên cạnh tiền công, thu nhập cá nhân còn bao gồm các khoản: tiền thuê đất và các tài nguyên khác là các khoản thu nhập mà người chủ sở hữu được phân phối từ sản phẩm xã hội thông qua việc cung ứng đất đai và các tài nguyên khác vào sản xuất kinh doanh với tư cách là yếu tố đầu vào; lợi tức và lãi suất là thu nhập của những người cung cấp yếu tố đầu vào của sản xuất là vốn và tài sản tài chính; lợi nhuận là phần thu nhập cá nhân được nhận nhờ có sự chênh lệch giữa tổng thu nhập với tổng chi phí của một doanh nghiệp mà cá nhân đó tham gia sở hữu.

Trong khi đề cao vai trò của thị trường, các nhà kinh tế trường phái chính hiện đại cũng chỉ ra những thất bại của thị trường. Theo họ, cơ chế thị trường có khả năng giải quyết khá hiệu quả các vấn đề cái gì như thế nào - những vấn đề về phân bổ tài nguyên và việc lựa chọn kĩ thuật tốt nhất để sản xuất ra những hàng hoá cụ thể, nhưng thị trường không có khả năng đặc biệt để tìm ra giải pháp tốt nhất đối với vấn đề cho ai. Một nền kinh tế hiệu quả nhất trên thế giới vẫn có thể tạo ra sự bất bình đẳng lớn trong phân phối thu nhập. Đó là biểu hiện sự thất bại và sự phân phối tuỳ tiện của thị trường.

Các nhà kinh tế học trường phái chính hiện đại đã viết: “Sự thực là thị trường cạnh tranh không thể bảo đảm rằng thu nhập và tiêu dùng nhất thiết sẽ được phân phối cho những người có nhu cầu nhất hoặc xứng đáng nhất… Trong tự do kinh doanh, cạnh tranh hoàn hảo sẽ đưa đến sự bất bình đẳng rất lớn” [29, tr. 566]. Chính vì “Ngay cả khi bàn tay vô hình hoạt động và vô cùng hiệu quả, nó đồng thời vẫn có thể tạo ra sự phân phối thu nhập rất không công bằng” [29, tr.581], nên nhà nước cần phải can thiệp vào phân phối thu nhập thông qua các chính sách phân

phối lại, bởi “phân phối lại thu nhập - là chức năng kinh tế lớn thứ hai của chính phủ” [29, tr.581].

Nguồn gốc của sự bất bình đẳng trong phân phối TNCN, như trên đã đề cập, một phần là do sự khác nhau về năng lực lao động, nghề nghiệp, trình độ chuyên môn kĩ thuật, tính chuyên cần, chịu khó, và nhất là nguồn tài sản do thừa kế, sáng chế, kinh doanh mà mỗi người có được. Do thị trường là một cơ chế điều tiết không biết đến phạm trù đạo đức và nhân đạo nên nếu cứ để mặc sự khác nhau nói trên do cơ chế này tự điều tiết thì không thể tránh khỏi sự bất bình đẳng lớn về thu nhập. Bởi vậy, cần phải có sự can thiệp của nhà nước vào phân phối TNCN nhằm giảm bớt tình trạng bất bình đẳng về thu nhập. Muốn vậy, nhà nước phải thiết lập các chương trình tác động đến việc phân phối TNCN. Thông qua phân phối lại, nhà nước có thể dành một phần thu nhập để đảm bảo mức tối thiểu về y tế, dinh dưỡng, thu nhập… nhằm nâng cao mức sống của người nghèo.

Việc phân phối lại có thể làm giảm khoảng cách bất bình đẳng trong xã hội, nhưng cũng phải trả giá là tình trạng không hiệu quả về mặt kinh tế. Vì vậy, để đảm bảo cả 2 mục tiêu công bằng và hiệu quả, các nhà kinh tế trường phái chính hiện đại đã đưa ra khái niệm Hàm số phúc lợi xã hội. Họ cho rằng hiệu quả kinh tế là điều kiện "cần", còn phân phối hợp lý là điều kiện "đủ" của lợi ích tối đa. Chỉ có đồng thời đưa các nhân tố về phân phối và các nhân tố chi phối khác vào trong một hàm phúc lợi xã hội và chỉ khi giá trị của hàm này lớn nhất thì mới đạt được tối ưu hoá phúc lợi xã hội.

Tóm lại, theo kinh tế học trường phái chính hiện đại, thị trường với cơ chế tự điều tiết là cơ chế phân bổ có hiệu quả nhất thu nhập quốc dân. Nguyên tắc phân phối TNCN là dựa trên đóng góp của các yếu tố đầu vào của sản xuất và năng lực sản xuất kinh doanh của cá nhân thông qua cơ chế thị trường. Mặt khác, cần thiết phải có sự can thiệp của nhà nước vào phân phối để giảm bớt tình trạng bất bình đẳng về thu nhập trong xã hội. Họ đã đặt ra mối quan hệ giữa phân phối công bằng với hiệu quả, chú ý đến tính hợp lí của thu nhập xã hội trên nguyên tắc kiên trì ưu tiên có hiệu quả.

1.1.4. Quan điểm của Đảng ta về phân phối thu nhập cá nhân từ khi tiến hành đổi mới đến nay

Ngay từ khi bắt đầu xây dựng CNXH ở nước ta, Đảng ta luôn nhận thức rằng phân phối thu nhập là một nội dung quan trọng trong chính sách kinh tế - xã hội, liên quan trực tiếp đến cuộc sống hàng ngày của hàng chục triệu con người, đến động lực phát triển kinh tế, đến ổn định chính trị - xã hội và nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước.

Hiện nay, trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, Đảng ta xác định phân phối TNCN phải dựa trên cơ sở đóng góp thực tế của mỗi người về lao động, vốn, tài sản... vào sản xuất kinh doanh. Để thực hiên phân phối công bằng, cần phải:

- Bình đẳng trong phân phối kết quả sản xuất giữa người góp vốn với người góp sức lao động;

- Bình đẳng trong phân phối kết quả sản xuất giữa những người góp vốn theo nguyên tắc ai góp nhiều được phân chia nhiều, ai góp ít được phân chia ít;

- Bình đẳng trong phân phối kết quả sản xuất giữa những người lao động theo nguyên tắc ai làm nhiều, làm tốt được hưởng nhiều, ai làm ít hưởng ít, ai làm hỏng phải chịu phạt, mọi người có sức lao động phải lao động.

Ngoài ra, xã hội phải điều tiết thu nhập cá nhân giữa những người có thu nhập cao, thấp khác nhau do đóng góp sức lao động và các nguồn lực khác vào sản xuất khác nhau nhằm đảm bảo công bằng xã hội.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (năm 1986) khẳng định: Việc thực hiện đúng nguyên tắc phân phối theo lao động đòi hỏi phải sửa đổi một cách căn bản chế độ tiền lương theo hướng đảm bảo yêu cầu tái sản xuất sức lao động, khắc phục tính chất bình quân... áp dụng các hình thức trả lương gắn chặt với kết quả lao động và hiệu quả kinh tế.

Phân phối trong kinh tế thị trường định hướng XHCN phải bảo đảm sự thống nhất giữa hiệu quả và công bằng. Vì thế, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (năm 1991) của Đảng đã thông qua quan điểm: Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền

với tiến bộ và cụng bằng xó hội, phỏt triển văn hóa, bảo vệ môi trường. Lấy phõn phối theo lao động làm hỡnh thức chớnh, khuyến khớch làm giàu đi đôi với giảm số người nghèo, nâng cao phúc lợi xó hội phự hợp với trỡnh độ phát triển kinh tế.

Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (năm 1996) tiếp tục quan điểm của Đại hội VII, theo đó "Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển và trong suốt quá trình phát triển"[8, tr.113]. Văn kiện Đại hội IX của Đảng (năm 2001) cũng khẳng định "thực hiện công bằng trong phân phối, tạo động lực mạnh mẽ phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động xã hội, thực hiện bình đẳng trong quan hệ xã hội, khuyến khích nhân dân làm giàu hợp pháp" [9, tr. 104].

Đến Đại hội X, quan điểm của Đảng ta về chế độ phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là: “thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội”[10, tr. 26].

Quan điểm phân phối trên được bắt nguồn từ mục đích tối cao của Đảng là thực hiện bằng được “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Nó thể hiện đặc trưng của quan hệ phân phối thu nhập trong thời kỳ quá độ lên CNXH là lấy phát triển nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế làm phương tiện. Đây là quan điểm mới về phân phối thu nhập trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Việc thực hiện quan điểm đó sẽ tạo động lực cho việc huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của xã hội vào sự nghiệp phát triển đất nước.‌

1.2. Vai trò, nguyên tắc và các hình thức phân phối thu nhập cá nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

1.2.1. Vai trò của phân phối TNCN trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN

Phát triển kinh tế là mục tiêu của mọi quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, mỗi nước lại thu được những kết quả phát triển kinh tế rất khác nhau. Có nước phát triển thịnh vượng, nhưng có nước lại chìm trong nghèo đói. Bên cạnh những nguyên nhân về chính trị, xã hội, tôn giáo…, một trong những nguyên nhân quan

trọng nhất là động lực kinh tế khác nhau giữa các quốc gia. Chế độ phân phối thu nhập chính là yếu tố quan trọng nhất tạo nên động lực kinh tế. Nói cách khác, những nước có chế độ phân phối phù hợp sẽ tạo ra động lực kinh tế to lớn đối với người dân, khuyến khích người dân đầu tư phát triển sản xuất, nhờ đó nền kinh tế quốc gia ngày một thịnh vượng. Những nước mà ở đó chế độ phân phối không khuyến khích người dân lao động sẽ chỉ có một nền kinh tế đình trệ, kém phát triển.

Chế độ phân phối thể hiện sự kết hợp của ba loại lợi ích: lợi ích của người lao động, lợi ích của tập thể nơi cá nhân trực tiếp lao động (doanh nghiệp, tổ chức,…) và lợi ích chung toàn xã hội. Khi các lợi ích trên có sự thống nhất cao sẽ tạo ra sự thống nhất về ý chí và hành động của các cá nhân, làm tăng động lực phát triển kinh tế. Ngược lại, khi các lợi ích trên thiếu sự thống nhất, hay bị vi phạm thì sẽ làm giảm động lực phát triển. Mặt khác, như trên đã trình bày, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, phân phối là một bộ phận của tái sản xuất xã hội, sản xuất là quyết định nhưng phân phối cũng có vai trò quan trọng, tác động trở lại sản xuất. Tác động này thể hiện ở khả năng làm gia tăng hay triệt tiêu động lực của sản xuất.

Cũng giống như tất cả các nền kinh tế khác, vấn đề phân phối TNCN nhận được sự quan tâm rất lớn của các nhà lý luận cũng như các nhà hoạch định chính sách kinh tế của nước ta trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Giải quyết tốt vấn đề này chính là tìm được lời giải cho bài toán tạo động lực phát triển cho nền kinh tế quốc dân, tiến tới thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.

1.2.2. Nguyên tắc phân phối TNCN trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN

Lý luận kinh tế về phân phối thu nhập của CNTB cho rằng giữa công bằng và hiệu quả tồn tại quan hệ thay thế và thường chọn hiệu quả là mục tiêu ưu tiên. Khi phân tích các mô hình tăng trưởng trong quá khứ của các nước phát triển, các nhà kinh tế học tư bản cho rằng trong giai đoạn đầu của tăng trưởng kinh tế, tình hình phân phối thu nhập thường xấu đi, nhưng nó sẽ tốt lên ở giai đoạn sau. Một số

nhà lý luận thậm chí còn cho rằng phân phối không công bằng là điều kiện cần thiết

để tạo ra tốc độ tăng trưởng cao.

Thực tế, không phải phân phối không công bằng là điều kiện của tăng trưởng, mà trái lại, chính sự phân phối thu nhập công bằng là một điều kiện để tăng trưởng kinh tế. Phân phối thu nhập công bằng có tác dụng như một hình thức kích thích vật chất và tâm lý đối với công chúng tham gia vào quá trình phát triển kinh tế. Mặt khác, thu nhập người nghèo tăng cũng sẽ làm tăng cầu xã hội, từ đó sẽ kích thích sản xuất, tạo điều kiện cho nền kinh tế tăng trưởng nhanh. Như vậy, quan hệ giữa hiệu quả và công bằng không phải là quan hệ thay thế lẫn nhau mà có quan hệ tác động qua lại lẫn nhau.

Bản chất của xã hội XHCN mà chúng ta đang xây dựng là một xã hội trong đó con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện. Để đạt được điều đó phải có một nền kinh tế phát triển cao, có cơ chế phân phối thu nhập đảm bảo sự thống nhất giữa hai mặt: hiệu quả và công bằng.

Hiệu quả kinh tế luôn là yêu cầu quan trọng hàng đầu trong phát triển kinh tế - xã hội. Nếu không chú ý tới hiệu quả, tách rời nó khỏi mục tiêu phát triển kinh tế thì xã hội sẽ đình trệ, đất nước sẽ lạc hậu. Do đó, nâng cao hiệu quả kinh tế là yêu cầu khách quan của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Tuy nhiên, nâng cao hiệu quả kinh tế, tăng thêm của cải xã hội không phải là để thoả mãn nhu cầu của một số ít người mà là để thoả mãn nhu cầu vật chất và tinh thần của toàn thể nhân dân. Vì thế, đồng thời với việc nhấn mạnh mục tiêu hiệu quả kinh tế, cần phải thực hiện phân phối thu nhập công bằng để đảm bảo lợi ích cho mọi tầng lớp nhân dân.

Sự thống nhất giữa hiệu quả và công bằng trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là sự thống nhất biện chứng của các mặt đối lập. Hiệu quả kinh tế tạo điều kiện vật chất để thực hiện công bằng, chỉ có không ngừng tăng thêm của cải xã hội thì phân phối công bằng mới có điều kiện thực hiện được. Nếu hiệu quả kinh tế thấp, vật chất thiếu thốn, thì dù mọi người được chia những phần ngang nhau, sự "công bằng" ấy chỉ là sự "bình quân" nghèo túng, tuyệt nhiên không phải là tiêu chuẩn công bằng của CNXH.

Ngược lại, công bằng có tác dụng kích thích gia tăng hiệu quả kinh tế. Việc nâng cao hiệu quả kinh tế suy đến cùng phải dựa vào việc phát huy tính tích cực của người lao động. Tính tích cực của người lao động có được phát huy đầy đủ hay không tuỳ thuộc vào cảm nhận của họ đối với lợi ích kinh tế của bản thân, hay thu nhập cá nhân có được phân phối công bằng hay không. Nếu việc phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN có thể làm cho đại đa số người lao động cảm thấy công bằng thì sẽ khơi dậy tinh thần lao động tích cực và sáng tạo để nâng cao hiệu quả kinh tế, tạo ra ngày càng nhiều của cải cho xã hội.

Tuy nhiên, sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN trong giai đoạn đầu tất yếu cũng sẽ hình thành khoảng cách thu nhập, đây là vấn đề mang tính quy luật, nhưng khoảng cách thu nhập ấy cần được giữ ở mức vừa phải, hợp lý. Chỉ có như vậy mới kích thích việc nâng cao hiệu quả kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Nếu khoảng cách thu nhập quá nhỏ hoặc quá lớn thì sẽ dẫn đến mở rộng mâu thuẫn giữa công bằng và hiệu quả, làm giảm sút hiệu quả kinh tế, không có lợi cho sự tiến bộ và phát triển lực lượng sản xuất xã hội.

1.2.3. Những hình thức phân phối thu nhập cá nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN

Nước ta hiện đang tồn tại ba chế độ sở hữu cơ bản là sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân, trên cơ sở ba chế độ sở hữu cơ bản đó, hình thành nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế bao gồm: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Các thành phần kinh tế đó cùng tồn tại một cách khách quan, là bộ phận hợp thành của nền kinh tế thời kỳ quá độ lên CNXH, hoạt động theo pháp luật và đều bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Do đó, chúng ta không chỉ củng cố và phát triển các thành phần kinh tế dựa trên chế độ công hữu là kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, mà còn phải khuyến khích các thành phần kinh tế dựa trên chế độ tư hữu phát triển để hình thành một nền kinh tế thị trường rộng lớn, đa dạng. Tuy nhiên, do chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất quyết

Xem tất cả 135 trang.

Ngày đăng: 15/08/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí