Vai Trò Của Nhà Nước Trong Phân Phối Thu Nhập Cá Nhân

định quan hệ phân phối thu nhập, vì vậy với mỗi thành phần kinh tế, mỗi hình thức sở hữu có hình thức phân phối thu nhập tương ứng. Chính vì thế Đại hội X của Đảng đã đưa ra quan điểm “thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội"[10, tr. 26].

Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN có những hình thức phân phối TNCN chủ yếu sau:

* Phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế

Chúng ta đang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, với mục tiêu là thiết lập chế độ sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất, tức là xác định quyền bình đẳng của người lao động đối với tư liệu sản xuất. Khi đó, lao động của mỗi người được đo trực tiếp bằng thời gian lao động, thực hiện hình thức phân phối theo lao động trên cơ sở lao động ngang nhau. Nền kinh tế nước ta hiện nay còn một yếu tố nữa là thị trường, kết quả lao động được đưa ra trao đổi trên thị trường trên cơ sở trao đổi ngang giá. Như vậy, lao động của cá nhân không thể trực tiếp trở thành lao động xã hội cần thiết, trao đổi với nhau mà phải bằng con đường vòng mới chuyển hoá thành lao động xã hội cần thiết. Người lao động được phân phối theo lượng lao động mà cá nhân đóng góp, đã được thị trường chấp nhận và tự phát quy đổi. Tức là sản phẩm do lao động của mỗi cá nhân làm ra phải được thị trường chấp nhận. Trong kinh tế thị trường định hướng XHCN, phân phối theo lao động phải được thị trường đánh giá và chấp nhận.

Phân phối theo lao động là đặc trưng bản chất của kinh tế thị trường định hướng XHCN, nó là hình thức thực hiện về mặt kinh tế của chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Nó cũng phù hợp với trình độ hiện nay của lực lượng sản xuất và thể hiện bản chất của quan hệ sản xuất XHCN: thực hiện phân phối công bằng và xoá bỏ bóc lột trên cơ sở thực hiện chế độ công hữu.

Phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là sự vận dụng nguyên tắc phân phối theo lao động trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN. Kết quả lao động cụ thể của mỗi người, của một doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh

tế chỉ có thể được thừa nhận và có căn cứ để phân phối khi sản phẩm của đơn vị đó được thị trường thừa nhận (hàng hoá bán được), hay giá trị lao động cá biệt của cá nhân đó, doanh nghiệp đó thấp hơn giá trị lao động xã hội. Nhờ đó, doanh nghiệp có thể bán sản phẩm với giá cả ngang với mức thị trường chấp nhận, từ đó thu hồi được vốn và có lợi nhuận, những cơ sở để thực hiện phân phối. Còn nếu ngược lại, giá trị lao động cá biệt không được thị trường chấp nhận, lao động không đạt được mức hiệu quả tối thiểu cần thiết thì sẽ không có cơ sở kinh tế để thực hiện phân phối. Hiệu quả kinh tế được thể hiện ở kết quả của lao động cá nhân và tập thể lao động trong doanh nghiệp. Hiệu quả kinh tế càng cao, tức là giá trị cá biệt càng thấp hơn so với giá trị lao động xã hội, điều đó thể hiện năng suất lao động của cá nhân, doanh nghiệp đó càng cao. Khi đó lợi nhuận chung của doanh nghiệp sẽ cao và các cá nhân đóng góp công sức cho thành quả đó cũng sẽ được phân phối nhiều hơn. Thực hiện phân phối theo lao động và hiệu quả kinh tế đòi hỏi các cá nhân và doanh nghiệp phải luôn đổi mới công nghệ, cải tiến quy trình sản xuất, nâng cao chất lượng lao động. Yêu cầu của phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là trong những điều kiện lao động như nhau, những lao động mang lại kết quả ngang nhau thì được trả công bằng nhau, những lao động mang lại kết quả khác nhau phải được trả công khác nhau.

Phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là nguyên tắc cần thiết vì chỉ có như vậy, mỗi người lao động mới thực sự quan tâm đến kết quả lao động của mình và quan tâm đến kết quả hoạt động của doanh nghiệp, tạo động lực thúc đẩy sản xuất phát triển.

Quá trình phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế được thực hiện thông qua hai khâu (hai cấp) phân phối với các chủ thể tham gia là nhà nước, doanh nghiệp và người lao động trong doanh nghiệp. Đầu tiên, tổng thu nhập của doanh nghiệp được phân chia giữa nhà nước và doanh nghiệp. Nhà nước, trên cơ sở kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, quy định phần thu nhập mà doanh nghiệp phải nộp cho nhà nước, phần còn lại là thu nhập thực của doanh nghiệp. Tiếp đó là phân phối thu nhập trong nội bộ doanh nghiệp do doanh nghiệp, với tư cách là chủ thể, sau khi dành ra phần để phát triển sản xuất và một phần cho

phúc lợi chung, phần còn lại dùng để phân phối thu nhập cá nhân, được tiến hành dựa trên cơ sở kết quả lao động của mỗi người. Kết quả đó được xác định dựa trên những quy định cụ thể về chất lượng, hiệu quả công việc và do doanh nghiệp đánh giá. Đó là công việc nội bộ của doanh nghiệp.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 135 trang tài liệu này.

Hai khâu phân phối trên không thể tách rời nhau, sự kết hợp chúng tạo thành cơ chế phân phối thu nhập của doanh nghiệp. TNCN phải thông qua cả sự kiểm nghiệm, đánh giá của cả thị trường lẫn của doanh nghiệp. TNCN và hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp có mối liên hệ ràng buộc lẫn nhau. Phân phối thu nhập qua hai khâu như trên vừa đảm bảo quyền của chủ sở hữu tài sản vốn tại doanh nghiệp, thực hiện chức năng quản lý của nhà nước, vừa bảo đảm quyền tự chủ của doanh nghiệp trong phân phối thu nhập. Phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế được thực hiện dưới hình thức tiền lương, phụ cấp, tiền thưởng và phúc lợi tập thể.

Phân phối TNCN theo kết quả lao động được thể hiện dưới các dạng thức cụ thể sau:

Chính sách phân phối thu nhập cá nhân ở Việt Nam - 4

- Tiền lương là số tiền mà người sử dụng lao động trả cho người lao động sau khi đã hoàn thành đảm bảo chất lượng và hiệu quả các công việc theo chức năng, nhiệm vụ được thoả thuận trong hợp đồng lao động. Về thực chất, tiền lương trong hợp đồng lao động là giá cả của sức lao động, vì thế, giá trị sức lao động là cơ sở của tiền lương. Ngoài ra, tiền lương còn chịu ảnh hưởng của tình hình cung - cầu về sức lao động. Theo C.Mác, tiền lương ít nhất cũng phải bảo đảm tái sản xuất (khôi phục lại) sức lao động của con người.

Mức tiền lương tối thiểu là mức tiền lương dựa trên cung - cầu lao động, khả năng kinh tế và chỉ số giá sinh hoạt, bảo đảm cho người lao động làm công việc giản đơn nhất trong điều kiện lao động bình thường bù đắp được sức lao động giản đơn và một phần tích luỹ tái sản xuất sức lao động mở rộng. Nói một cách dễ hiểu hơn, mức lương tối thiểu phải bảo đảm các nhu cầu thiết yếu về ăn, mặc, ở, đi lại, chữa bệnh, học hành, sinh hoạt văn hoá, giao tiếp xã hội… và một phần để nuôi con cái. Nó được xây dựng căn cứ vào mức sống tối thiểu và điều kiện kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ. Khi chỉ số giá sinh hoạt tăng lên làm thu nhập thực tế của

người lao động giảm đi thì chính phủ điều chỉnh mức lương tối thiểu để đảm bảo cuộc sống cho người lao động. Việc quy định tiền lương tối thiểu bằng văn bản pháp luật nhằm tạo ra lưới an toàn cho người lao động. Ở nước ta, Bộ luật lao động năm 1994 quy định mức lương người sử dụng lao động trả cho người lao động không được thấp hơn mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định.

Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, tiền lương có các chức năng sau đây: 1) thước đo giá trị; 2) tái sản xuất sức lao động; 3) kích thích người lao động; 4) tích luỹ để đảm bảo cuộc sống của người lao động khi về già.

- Phụ cấp lương là chế độ được hình thành bởi sự thoả thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động trên cơ sở luật lao động. Hiện nay Nhà nước ta quy định các loại phụ cấp gồm: phụ cấp thâm niên vượt khung, phụ cấp kiêm nhiệm chức danh lãnh đạo, phụ cấp khu vực, phụ cấp đặc biệt, phụ cấp thu hút, phụ cấp lưu động, phụ cấp độc hại, nguy hiểm, phụ cấp trách nhiệm công việc, phụ cấp đặc thù theo nghề hoặc công việc để người sử dụng lao động dựa vào đó, đồng thời căn cứ vào điều kiện của mình mà xác định phụ cấp cho người lao động.

- Tiền thưởng là khoản mà các doanh nghiệp trích từ lợi nhuận sau thuế, phần kinh phí quản lý hành chính tiết kiệm còn lại sau khi đã thanh toán lương cho cán bộ, công chức đối với cơ quan hành chính sự nghiệp được phân phối nhằm khuyến khích, động viên người lao động hoặc tập thể làm việc tốt, có thành tích đặc biệt. Dùng tiền thưởng đối với người lao động có thành tích trong công việc có ý nghĩa quan trọng và đã trở thành phổ biến ở các nước. Ở nước ta, Điều 64 Bộ luật lao động năm 1994 ghi rõ "Người sử dụng lao động có trách nhiệm trích từ lợi nhuận hàng năm để thưởng cho người lao động đã làm việc tại doanh nghiệp từ một năm trở lên, theo quy định của Chính phủ phù hợp với đặc điểm của từng loại doanh nghiệp”.

- Phúc lợi tập thể cũng là một hình thức làm tăng thêm thu nhập cho người lao động dựa trên kết quả lao động và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Nó được trích từ lợi nhuận của doanh nghiệp nhưng không được phân phối trực tiếp cho người lao động mà gián tiếp thông qua các hình thức như: xây dựng nhà ở, nhà ăn, nhà nghỉ mát, nhà điều dưỡng, các công trình văn hoá, thể thao, tài trợ các buổi

lễ hội, lập quỹ khuyến học; trợ giúp các đối tượng chính sách xã hội, người nghèo; tổ chức các hoạt động văn hoá, du lịch, thể thao…

* Phân phối theo mức đóng góp vốn và tài sản

Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, phân phối TNCN theo mức đóng góp vốn và tài sản là một tất yếu và cũng là một nguyên tắc phân phối thu nhập cơ bản. Trong thời kỳ quá độ lên CNXH còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu, do đó nền kinh tế gồm nhiều thành phần tương ứng với cơ cấu sở hữu như vậy, và tất nhiên phân phối thu nhập cũng phải thực hiện nhiều hình thức khác nhau. Lấy phân phối thu nhập dựa trên kết quả lao động và hiệu quả kinh tế làm chủ yếu, đồng thời cũng phải thừa nhận nguyên tắc phân phối theo mức đóng góp vốn và tài sản, đó không chỉ là tất yếu, mà còn có ý nghĩa thực tế. Đây là điều đã được Đảng ta thừa nhận và thể hiện trong các văn kiện chính thức cũng như được pháp luật bảo hộ.

Người sở hữu tài sản dưới một hình thức nào đó là nhằm tham dự vào phân phối thu nhập dưới hình thức tương ứng. Phân tích chế độ tư hữu cho thấy bất kỳ sự chiếm hữu nào đối với tư liệu sản xuất đều nhằm để được nhận thu nhập. Thu nhập là hình thức thực hiện về mặt kinh tế của quyền sở hữu các yếu tố sản xuất. Vì thế, người sở hữu vốn và tư liệu sản xuất góp vào sản xuất phải nhận được thu nhập dưới hình thức tương ứng. Chỉ có như vậy người có vốn, tài sản mới đầu tư vốn và tài sản của mình vào sản xuất kinh doanh, mới huy động được mọi nguồn lực trong xã hội vào phát triển sản xuất. Mặt khác, vốn và tư liệu sản xuất là những yếu tố đầu vào của sản xuất, tuy không tạo ra giá trị mới nhưng đóng vai trò không thể thiếu trong quá trình tạo ra của cải xã hội. Với ý nghĩa đó, kết quả sản xuất kinh doanh cần phải được phân phối theo mức đóng góp các yếu tố đó.

Như vậy, phân phối thu nhập theo mức đóng góp vốn và tài sản là một tất yếu và có ý nghĩa thực tế, cần xem nó cũng là một trong những nguyên tắc phân phối cơ bản trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.

Trong thành phần kinh tế tư bản tư nhân, bộ phận giá trị mới được phân thành: khoản trả công lao động và quản lý, khoản nộp thuế cho nhà nước, còn lại là lợi nhuận của nhà tư bản.

Bộ phận giá trị mới trong công ty cổ phần được phân thành khoản trả công lao động và quản lý, khoản nộp thuế cho nhà nước, phần còn lại được chia theo số lượng cổ phần mà mỗi cổ đông sở hữu dưới hình thức lợi tức cổ phần. Như vậy, lợi tức cổ phần là một phần lợi nhuận của công ty cổ phần, là một hình thức thu nhập dựa vào sự góp vốn cổ phần. Trong hình thức liên doanh, các bên tham gia phân chia lợi nhuận của doanh nghiệp liên doanh dựa trên mức vốn mình góp vào liên doanh.

Các đơn vị kinh tế, các tổ chức và cá nhân có những khoản tiền tệ tạm thời nhàn rỗi, chưa sử dụng, đem gửi vào ngân hàng hoặc cho vay để nhận lợi tức. Lợi tức là hình thức thu nhập dựa trên sở hữu tiền tệ, là hình thức thực hiện về mặt kinh tế của chủ sở hữu vốn tiền tệ đem cho vay, nó là một phần lợi nhuận mà người đi vay trả cho người cho vay do đã sử dụng vốn tiền tệ này. Ngoài ra còn có hình thức khác như cho thuê tài chính, quỹ đầu tư…

Riêng thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ, người lao động dựa vào tư liệu sản xuất và lao động của bản thân cũng như của gia đình để tiến hành sản xuất kinh doanh. Vì thế, tổng doanh thu sau khi trừ đi chi phí sản xuất đã bỏ ra và nộp thuế cho Nhà nước chính là thu nhập của họ.

* Phân phối thu nhập thông qua phúc lợi xã hội

Phân phối thu nhập thông qua phúc lợi xã hội cũng là một nguyên tắc phân phối trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Đây là quá trình phân phối lại thu nhập trong nền kinh tế quốc dân. Sở dĩ phải thực hiện nguyên tắc này là vì trong xã hội ngoài những người có sức lao động và có vốn góp vào quá trình sản xuất kinh doanh, nhờ đó nhận được thu nhập dưới các hình thức tiền lương, lợi nhuận, lợi tức…, còn có những người không có khả năng lao động hoặc hết khả năng lao động, những đối tượng chính sách (người có công với cách mạng, người bị nhiễm chất độc da cam…) mà xã hội vẫn phải đảm bảo đời sống cho họ. Thêm vào đó, không phải mọi tiêu dùng cá nhân chỉ dựa vào thu nhập theo hai nguyên tắc

phân phối nói trên, mà vẫn cần nhận được những khoản thu nhập thông qua dịch vụ công cộng về y tế, giáo dục, văn hoá...

Quỹ phúc lợi được phân thành hai bộ phận: một bộ phận là thu nhập cá nhân như lương hưu, tiền trợ cấp, một bộ phận khác được tiêu dùng chung như các công trình văn hoá, giáo dục, y tế...

Nền kinh tế nước ta phát triển theo định hướng XHCN nên phân phối thu nhập thông qua phúc lợi xã hội có ý nghĩa quan trọng. Nó góp phần thực hiện công bằng xã hội, giảm sự chênh lệch về thu nhập giữa các tầng lớp nhân dân; nâng cao mức sống của nhân dân, đặc biệt là những người có thu nhập thấp, giáo dục ý thức cộng đồng và tạo điều kiện cho con người phát triển toàn diện. Vì thế cần phải xây dựng và sử dụng hợp lý các quỹ phúc lợi xã hội và tập thể.‌

1.3. Chính sách phân phối thu nhập cá nhân

1.3.1. Vai trò của Nhà nước trong phân phối thu nhập cá nhân

Chức năng kinh tế của Nhà nước, cùng với tổ chức quản lý sản xuất trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân, còn phải tổ chức quản lý việc phân phối, điều tiết thu nhập quốc dân, bao gồm cả TNCN. Đặc biệt, do bản chất và tính hơn hẳn của nhà nước XHCN so với các hình thái nhà nước khác trong lịch sử mà vai trò của nhà nước XHCN trong phân phối thu nhập càng được tăng cường. Sự can thiệp của Nhà nước vào phân phối thu nhập là cần thiết và hoàn toàn có lợi cho công cuộc xây dựng CNXH.

Mục tiêu cơ bản sự điều tiết của Nhà nước XHCN đối với phân phối TNCN như trên đã trình bày là nhằm thực hiện công bằng. Điều tiết phân phối TNCN phải đảm bảo các nguyên tắc sau: (1) trên cơ sở thừa nhận sự khác biệt về thu nhập của cá nhân, điều tiết đối với thu nhập phải làm cho sự khác biệt đó ở mức độ vừa phải, có thể chấp nhận được; (2) phải có tác dụng kích thích nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội; (3) phải giữ vững được sự ổn định chính trị - xã hội.

Phân phối thu nhập công bằng nghĩa là người lao động có thể tham gia vào cạnh tranh trong điều kiện bình đẳng, thu nhập nhiều hay ít tương ứng với sự đóng góp nhiều hay ít. Chủ nghĩa bình quân và khoảng cách thu nhập quá xa là hai biểu hiện chủ yếu của phân phối thu nhập không công bằng. Cả hai hình thức trên đều

làm triệt tiêu động lực phấn đấu của người lao động, gây ra tình trạng trì trệ của nền kinh tế - xã hội, là nguồn gốc của những bất ổn xã hội.

Phân phối thu nhập công bằng nhằm duy trì khoảng cách thu nhập trong giới hạn có lợi cho mối quan hệ hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội, đảm bảo thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Do đó, phân phối thu nhập công bằng phải tiến hành điều tiết theo hai hướng: một là, tăng thu nhập cho những người có thu nhập thấp; hai là, huy động một phần thu nhập của những người có thu nhập cao vào ngân sách nhà nước để tái phân phối và đầu tư vào các phúc lợi công cộng. Để thực hiện phân phối thu nhập công bằng, hợp lý, Nhà nước cần phải:

- Xây dựng kế hoạch tổng thể về phân phối là khâu trung tâm của hệ thống điều hành phân phối thu nhập quốc dân một cách cân bằng và có trật tự. Kế hoạch phân phối thu nhập quốc dân sẽ có tác dụng điều tiết vĩ mô đối với phân phối TNCN. Duy trì được cân bằng tổng thể của phân phối thu nhập quốc dân, đảm bảo tỷ lệ hợp lý giữa tích luỹ và tiêu dùng sẽ ảnh hưởng quyết định đến các tỷ lệ chủ yếu của nền kinh tế quốc dân (hướng và quy mô đầu tư, tốc độ tăng trưởng kinh tế, mức sống của nhân dân…). Trên cơ sở kế hoạch tổng thể sẽ đưa ra các quyết sách kinh tế quan trọng như vấn đề tiền lương, trợ cấp tài chính, điều chỉnh giá cả,...

- Xây dựng, ban hành và thực thi các chính sách phân phối TNCN. Các chính sách này phải phản ánh được yêu cầu chung của phân phối thu nhập trong một thời kỳ nhất định, tạo thành cơ chế điều tiết tổng hợp đối với phân phối thu nhập quốc dân. Chính sách phân phối TNCN bao gồm chính sách tiền lương, chính sách thuế, chính sách BHXH, chính sách phúc lợi xã hội.

Nhà nước thông qua sự phối hợp đồng bộ các cơ chế, công cụ chính sách thực hiện điều tiết phân phối TNCN. Có hai phương thức điều tiết là điều tiết trực tiếp và điều tiết gián tiếp. Điều tiết trực tiếp là phân phối thu nhập theo kế hoạch của Nhà nước, Nhà nước tham gia trực tiếp vào hoạt động phân phối thu nhập của các ngành, các doanh nghiệp. Điều tiết gián tiếp được thực hiện chủ yếu thông qua tác dụng điều tiết của chính sách tài chính, thuế, lãi suất, giá cả,... để ảnh hưởng đến phân phối và phân phối lại thu nhập.

Xem tất cả 135 trang.

Ngày đăng: 15/08/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí