Hình 1.6
Các Công ty có cơ hội thành công trong những ngành công nghiệp nào có "hình thoi" nói trên thuận lợi nhất: "Hình thoi" này là một hệ thống tự ràng buộc và thúc đẩy lẫn nhau... Ngoài ra 4 nhóm nhân tố trên còn có hai nhân tố khác có thể tác động đến lợi thế cạnh tranh quốc gia: Cơ hội và vai trò của chính phủ: Cơ hội là những sự kiện như sự ra đời của các phát minh, sáng chế làm thay đổi cơ cấu của ngành Công nghiệp và cơ hội cho các doanh nghiệp của một quốc gia có thể thay thế cho doanh nghiệp của quốc gia khác. Vai trò chính phủ có thể thúc đẩy hoặc làm giảm lợi thế quốc gia thông qua việc áp dụng các chính sách khác nhau: tỷ giá hối đoái, chính sách thương mại, chính sách thuế; chính sách đầu tư vào giáo dục, chính sách chống độc quyền....
Mô hình của M.Porter có thể được sử dụng để xây dựng cơ cấu thương mại quốc tế: một nước sẽ xuất khẩu những mặt hàng công nghiệp có "hình thoi" thuận lợi và nhập khảu như mặt hàng công nghiệp có "hình thoi" không thuận lợi.
Tuy nhiên lý thuyết này mới ra đời cần phải có kiểm chứng tin cậy đối với những dự đoán.
1.1.3. Đặc điểm của hoạt động ngoại thương hiện nay.
1.1.3.1. Thương mại quốc tế chịu tác động của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lần thứ 4 - chủ đạo là công nghệ thông tin mở ra thời đại mới chuyển đổi từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức.
Từ đầu những năm 80 đến nay với sự bùng phát của các công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ năng lượng nguyên tử, điện tử viễn thông... đã thúc đẩy quá trình và công nghệ thông tin quốc tế hoá lực lượng sản xuất. Các quốc gia không phân biệt chế độ chính trị, trình độ phát triển
Có thể bạn quan tâm!
- Chính sách ngoại thương Việt Nam - Thực trạng và giải pháp - 1
- Chính sách ngoại thương Việt Nam - Thực trạng và giải pháp - 2
- Chuyên Môn Hoá Và Trao Đổi Giữa Các Quốc Gia Dựa Vào Lợi Thế So Sánh Động.
- Kinh Nghiệm Hình Thành Chính Sách Phát Triển Ngoại Thương Của Một Số Nước.
- Khái Quát Về Chính Sách Ngoại Thương Thời Kỳ Trước Đổi Mới (1986)
- Chính Sách Ngoại Thương Từ 1986 Đến Nay.
Xem toàn bộ 172 trang tài liệu này.
đều đứng trước yêu cầu cấu trúc lại nền kinh tế theo các hướng.
- Phát triển nhanh những ngành công nghiệp có hàm lượng công nghệ cao, đặc biệt là công nghệ mới, điều đó đòi hỏi một đội ngũ lao động phải
được đào tạo có hệ thống có tay nghề cao.
- Giảm tỷ trọng trong nền kinh tế của nông nghiệp, công nghiệp khai thác, tăng tỷ trọng của các ngành chế tạo và chế biến.
- Thay thế các vật liệu truyền thống bằng các vật liệu mới có hiệu quả kinh tế cao, giảm tiêu hao năng lượng, nguyên liệu trong một đơn vị sản phẩm.
vô.
- Phát triển mạnh kinh tế dịch vụ, tăng nhanh tỷ trọng giá trị các dịch
- Đồng thời với quá trình cấu trúc lại nền kinh tế quốc gia việc tổ chức
lại sản xuất và kinh doanh của các doanh nghiệp trong nền kinh tế cũng được tiến hành theo hai hướng.
+ Hình thành các Công ty quốc gia có quy mô quốc tế, các Công ty đa quốc gia trên cơ sở tập trung, liên kết các xí nghiệp đã hình thành nhằm khai thác các thành tựu của cách mạng khoa học công nghệ.
+ Phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ nhằm thích ứng với những biến đổi về công nghệ và đáp ứng yêu cầu của thị trường thế giới.
Việc cấu trúc lại nền kinh tế quốc gia và việc tổ chức lại sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp có tác động sâu sắc đến thương mại quốc tế, đó là:
- Cùng với sự gia tăng mạnh mẽ của các hoạt động xuất nhập khẩu hữu hình (ngoại thương hữu hình), các hoạt động xuất nhập khẩu dịch vụ (ngoại thương vô hình) và các hoạt động chuyển giao công nghệ, bảo vệ, cho thuê, hoặc chuyển nhượng các quyền sở hữu trí tuệ sẽ không ngừng tăng về tốc độ phát triển, quy vào giá trị và tỷ trọng giá trị trong thương mại thế giới
- Các sản phẩm có hàm lượng chất xám (kỹ thuật và công nghệ cao), có giá trị gia tăng lớn cũng sẽ không ngừng tăng về tốc độ phát triển, quy mô giá trị và tỷ trọng giá trị trong tổng giá trị thương mại thế giới. Ngược lại các sản phẩm sơ cấp bao gồm các sản phẩm thô và sơ chế của các ngành nông nghiệp, công nghiệp khai thác có hàm lượng lao động và nguyên liệu cao, chưa qua công nghiệp chế tạo, chế biến sâu và sản phẩm thủ công nghiệp có giá trị gia tăng nhỏ (từ các sản phẩm truyền thống dân tộc, độc đáo, có trình độ mỹ thuật, tay nghề cao), sẽ tiếp tục giảm về tỷ trọng trong tổng giá trị thương mại thế giới; Trong tiêu dùng, các sản phẩm có kích cỡ nhỏ, nhẹ, hình thức đẹp có xu hướng phát triển mạnh, mặc dù có thể tuổi thọ của chúng sẽ giảm hơn trước.
Cánh kéo giá cả giữa các sản phẩm sơ cấp (bao gồm nông sản, khoáng sản các nguyên liệu thô khác) và giá cả các sản phẩm đã qua công nghiệp chế tạo, chế biến sâu đặc biệt là sản phẩm có hàm lượng chất xám (kỹ thuật công nghệ cao) vẫn có xu hướng không ngừng mở rộng, gây bất lợi ngày càng lớn cho các nước xuất khẩu sản phẩm sơ cấp, mà hầu hết là các nước chưa phát triển, đang phát triển, nhưng còn ở trình độ thấp, trong đó, thua thiệt nhất vẫn là những nước có nguồn xuất khẩu chủ yếu là nông sản thô chưa qua công nghiệp chế biến
1.1.3.2. Thương mại quốc tế chịu tác động của toàn cầu hoá và khu vực hoá kinh tế.
Lịch sử nhân loại đã từng chứng kiến 3 lần có "hiện tượng toàn cầu hoá" trước khi bước vào thời đại "toàn cầu hoá mới" bắt đầu từ những thập kỷ cuối thế kỷ XX; lần thứ nhất, sau khi Cristop Colombo tìm ra Châu Mỹ thế kỷ XV, Châu Âu "khai hoá" thế giới và theo đó, tích luỹ tư bản ngày càng lớn; Anh trở thành bá chủ thế giới; lần thứ hai, vào giữa thế kỷ XIX, người Châu
Âu chinh phục Châu ¸, Nhật bản tiến hành cuộc "Duy tân" hưng thịnh đất nước; lần thứ 3, chiến tranh thế giới thứ II kết thúc, với sự ra đời của trật tự thế giới mới do các nước thắng trận dẫn dắt, các quốc gia thuộc Châu ¸, Phi và Mỹ la tinh giành được độc lập, hoà nhập vào cộng đồng thế giới. Điểm chung của 3 lần "hiện tượng toàn cầu" này là ở chỗ, chúng đều là hệ quả của chiến tranh, và chính sách thực dân, trình độ phát triển của các quốc gia còn thấp, các vấn đề chung có tính chất toàn cầu chưa xuất hiện, đặc biệt là các hiện tương, quá trình kinh tế có tính chất toàn cầu chưa được thể chế hoá; Toàn cầu hoá lần thứ 4, khác với 3 lần trước, nó được xuất hiện bởi sự bùng nổ của cuộc cách mạng kỹ thuật lần thứ 4 chủ đạo là công nghệ thông tin nó bao trùm hầu hết mọi lĩnh vực đời sống nhân loại và về thực chất nó là hiện tượng kinh tế. Toàn cầu hoá cũng bắt nguồn từ quá trình phát triển của lực lượng sản xuất, từ tính chất xã hội hoá của lực lượng sản xuất trên quy mô quốc tế. Cũng có thể nói rằng, toàn cầu hoá là lôgic tất yếu của quá trình quốc tế hoá lực lượng sản xuất. Toàn cầu hoá xét về bản chất là quá trình tăng lên mạnh mẽ những mối liên hệ, sự tác động và phụ thuộc lẫn nhau của tất cả các nước, các khu vực. Việc phát triển nhanh chóng các quan hệ kinh tế thương mại chu chuyển trên phạm vi quốc tế trong đó toàn cầu hoá về tài chính là nổi bật, chi phối các tiến trình tự do hoá về thương mại, dịch vụ, đầu tư; Ngày nay, giá trị trao đổi, buôn bán trên phạm vi toàn cầu đã tăng 12 lần so với giữa thế kỷ XX, thị trường tư bản quốc tế có mức luân chuyển vốn lên tới 300.000 tỷ USD/năm và 95% nền kinh tế tài chính đã nằm trong một "thế giới ảo". Một điểm cần lưu ý là, ngoài một số tác động tích cực toàn cầu hoá kinh tế hiện tại chịu sự khởi xướng và dẫn dắt của các nưóc phát triển theo hướng có lợi cho các nước phát triển và thua thiệt đối với các nước đang phát triển mới từng bước hội nhập và theo đó, thương mại quốc tế không thể không chịu tác động sâu sắc về các mặt thể chế hội nhập tiến trình tự do hoá thương mại, vấn đề bảo hộ mậu dịch và cơ cấu chủng loại mặt hàng.
1.1.3.3. Thương mại quốc tế chịu tác động của xu hướng thị trường hoá nền kinh tế trên quy mô toàn cầu với sự phát triển của các quan hệ song
phương, đa phương, các mối quan hệ kinh tế quốc tế cả về chiều rộng và chiều sâu:
Cùng với toàn cầu hoá kinh tế, ngày càng nhiều thị trường quốc gia và khu vực lần lượt hội nhập vào quỹ đạo thị trường thế giới, và theo đó, phạm vi, dung lượng, hiệu quả của thị trường thế giới không ngừng mở rộng với một kết cấu nhiều tầng, nấc để cuối cùng hình thành một thị trường thống nhất toàn cầu.
Trong những năm 90, việc tự do hoá thương mại được hầu hết các nước trong khu vực và thế giới thực hiện; những "rào cản" trong thương mại được giảm bớt: Những hạn chế về số lượng qua việc cấp quota, cấp giấy phép...
được thay thế dần bằng các biện pháp thuế quan. Kinh doanh hàng dệt may là ngoại lệ quan trọng nhất, song những hạn chế về số lượng trong ngành này dự kiến cũng sẽ được dỡ bỏ hoàn toàn vào ngày 01/1/2005. Có nhiều bằng chứng thực tế cho thấy ở các nước đang phát triển và các nước mới công nghiệp hoá chính sách tự do hoá thương mại tỏ ra hữu hiệu hơn chính sách công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu. Vì vậy quá trình tự do hoá thương mại ngày càng gia tăng, làyêu cầu phát triển khách quan của thương mại quốc tế. Mặt khác sự cạnh tranh trong xuất khẩu, giữa các nhà xuất khẩu của các nước với nhau và sự cạnh tranh giữa hàng nhập khẩu với các sản phẩm sản xuất trong nước diễn ra ngày càng gay gắt buộc nhiều nước không chỉ các nước đang phát triển mà còn cả các nước phát triển phải áp dụng hàng loạt các chính sách nhằm bảo hộ, hỗ trợ nền sản xuất trong nước, đồng thời khuyến khích hỗ trợ xuất khẩu. Bên cạnh thị trường hàng hoá thế giới với rất nhiều chủng loại phức tạp, còn có các thị trường khác phát triển rất nhanh chóng như: Lưu thông tiền tệ, vốn quốc tế, dịch vụ lao động, tin học, khoa học công nghệ thế giới.... xu hướng phát triển mạnh các loại hình đầu tư quốc tế, sự thay thế đầu tư quốc tế cho các quan hệ thuần tuý thương mại thúc đẩy các quan hệ kinh tế quốc tế thương mại quốc tế cả chiều rộng và chiều sâu.
1.1.3.4. Thương mại quốc tế chịu tác động của xu hướng hình thành trật tự kinh tế thế giới đa trung tâm.
Cuối những năm 80 đầu những năm 90, Liên xô và các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa Đông Âu tan rã, đã chấm dứt cục diện thế giới 2 cực
được hình thành từ sau Đại chiến thế giới lần thứ II. Mặc dù hiện tại toàn cầu hoá chịu sự khởi xướng và dẫn dắt của các nước phát triển trong đó Mỹ vẫn là cường quốc kinh tế số 1 thế giới, nhưng các nước này cũng không đủ sức khống chế được quá trình toàn cầu hoá; thế giới đang hình thành một trật tự kinh tế mới đá cực: Mỹ, Nhật, EU, Trung Quốc, Nga và Ên Độ, các nước đang phát triển cỡ trung bình, nhỏ tìm cách liên kết lại để tạo thế tham gia cuộc cạnh tranh không cân sức trên thế giới là một hướng mới hình thành các trung tâm kinh tế tiểu khu vực. Xu thế hình thành trật tự kinh tế mới có tác động sâu sắc tới các mối quan hệ kinh tế quốc tế, thương mại quốc tế.
1.1.3.5. Thương mại quốc tế gây ảnh hưởng tiêu cực không ít tới môi trường sinh thái và nguồn tài nguyên thiên nhiên: Thường là các nước lạc hậu và nước đang phát triển phải xuất khẩu các sản phẩm thô: nông sản, khoáng sản chưa qua chế tạo và chế biến sâu, giá trị gia tăng thấp; điều này ảnh hưởng tiêu cực môi trường sinh thái, gây cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Xuất phát từ những đặc điểm trên căn cứ mục tiêu định hướng của từng giai đoạn phát triển, Chính phủ các nước đề ra chính sách phát triển ngoại thương.
1.2. Chính sách ngoại thương.
1.2.1. Khái niệm, nhiệm vụ, nguyên tắc hình thành.
* Khái niệm:
- Chính sách ngoại thương (thương mại quốc tế) là một bộ phận của chính sách kinh tế đối ngoại nhằm điều chỉnh các hoạt động thương mại quốc tế của một quốc gia; chính sách thương mại quốc tế bao gồm một hệ thống các chính sách, công cụ, biện pháp thích hợp mà chính phủ áp dụng để điều chỉnh các hoạt động thương mại quốc tế của quốc gia trong một thời kỳ nhất
định nhằm đạt được các mục đích đã định trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia.
* Nhiệm vụ:
- Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong nước mở rộng buôn bán với nước ngoài, thông qua đàm phán quốc tế, mở rộng thị trường cho doanh nghiệp nhằm tăng quy mô xuất khẩu và tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới.
- Bảo vệ thị trường trong nước trước sự xâm nhập ngày càng mạnh mẽ của các hàng hoá dịch vụ nước ngoài, hạn chế cạnh tranh bất lợi cho doanh nghiệp nội địa.
* Nguyên tắc hình thành:
- Đối xử bình đẳng và bảo đảm cùng có lợi giữa các quốc gia và các chủ sở hữu trong thương mại quốc tế; lợi ích là động lực của phát triển xã hội, trong thương mại quốc tế phải đảm bảo giải quyết hài hoà lợi ích chung của quốc gia và lợi ích của doanh nghiệp.
- Thực hiện tự do buôn bán và bảo hộ mậu dịch: Đảm bảo tạo mọi điều kiện cho các doanh nghiệp tự do kinh doanh trên thị trường nội địa và mở rộng thị trường ra nước ngoài, tự do hoá thương mại trước hết nhằm thực hiện chủ trương mở rộng quy mô xuất khẩu và xuất khẩu trở thành cơ sở và điều kiện cho nhập khẩu. Kết quả của tự do hoá thương mại là ngày càng mở cửa cho hàng hoá nước ngoài, công nghệ nước ngoài, các hoạt động dịch vụ quốc tế
được thâm nhập vào thị trường nội địa, đồng thời cũng đạt được sự thuận lợi hơn cho việc xuất khẩu hàng hoá dịch vụ từ trong nước ra nước ngoài. Điều đó có nghĩa là phải đạt tới một sự hài hoà giữa tăng cường xuất khẩu với nới lỏng nhập khẩu. Các biện pháp để thực hiện tự do hoá thương mại chính là việc
điều chỉnh theo chiều hướng nới lỏng dần với bước đi phù hợp. Trên cơ sở các thoả thuận song phương và đa phương giữa các quốc gia đối với các công cụ bảo hộ mậu dịch đã và đang tồn tại trong quan hệ thương mại quốc tế. Quá trình tự do hoá thương mại gắn liền với những biện pháp có đi có lại trong khuôn khổ pháp lý giữa các quốc gia.
Bên cạnh tự do hoá thương mại là việc bảo hộ mậu dịch. Mục tiêu bảo hộ mậu dịch là để bảo vệ thị trường nội địa trước sự thâm nhập ngày càng
mạnh mẽ của các luồng hàng hoá dịch vụ từ bên ngoài, cũng tức là bảo vệ lợi ích quốc gia.
- Đảm bảo sự thống nhất giữa kinh tế và chính trị trong hoạt động ngoại thương. Đây là nguyên tắc quan trọng của chính sách ngoại thương. ë trên ta
đã phân tích các đặc điểm của hoạt động ngoại thương ngày nay. Các đặc
điểm này tác động rất sâu sắc tới việc hình thành chính sách ngoại thương: về kết cấu, chủng loại mặt hàng...., việc thị trường hoá nền kinh tế quốc gia,...
đặc biệt là việc hình thành trật tự kinh tế thế giới đa trung tâm; toàn cầu hoá, khu vực hoá chịu sự khởi xướng dẫn dắt, của các nước phát triển. Vì vậy việc xây dựng chính sách ngoại thương phải hết sức chú trọng tới định hướng phát triển kinh tế đối ngoại của quốc gia - xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ đi
đôi với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Thực hiện sự thống nhất giữa chính trị và kinh tế trong hoạt động ngoại thương đòi hỏi khi xây dựng chính sách ngoại thương phải tính toán một cách toàn diện các yếu tố chủ quan, khách quan, các xu hướng phát triển nền kinh tế, tình hình chính trị trong nước, quốc tế, sự tiến bộ khoa học kỹ thuật, xu hướng phát triển kinh tế, thương mại quốc tế, các chính sách kinh tế, thương mại của các nước bạn hàng...
1.2.2. Nội dung của chính sách ngoại thương:
Chính sách ngoại thương bao gồm các bộ phận cấu thành như chính sách thương nhân, chính sách thị trường, chính sách mặt hàng và các biện pháp sử dụng các công cụ thuế quan, phi thuế quan và tỉ giá hối đoái.
1.2.2.1. Chính sách thương nhân: thực hiện các biện pháp nhằm khuyến khích hoạt động xuất khẩu, môi trường pháp lý bình đẳng, minh bạch cho thương nhân thuộc mọi khu vực kinh tế tham gia hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu.
1.2.2.2. Chính sách mặt hàng: Gồm danh mục các mặt hàng cần được
định hướng và khuyến khích xuất, nhập khẩu, phù hợp với việc khai thác lợi thế so sánh, trình độ phát triển và đặc điểm của nền kinh tế quốc gia và danh mục mặt hàng cần hạn chế, thậm chí cấm xuất nhập khẩu trong một thời gian