Phương Pháp Nghiên Cứu Và Mục Đích, Nhiệm Vụ Của Luận Văn

lược của đoàn sứ thần Phan Huy Chú sang Hạ Châu năm 1830 ghi lại cuộc hành trình từ Đà Nẵng đến Batavia, trong đó có những trang viết về biển Việt Nam.

Bên cạnh đó, các tác phẩm nghiên cứu lịch sử của học giả Việt Nam như Hệ thống phòng thủ miền Trung dưới triều Nguyễn, Văn hoá Việt Nam tìm tòi và suy ngẫm, Biển với người Việt cổ, Quân thuỷ trong lịch sử chống ngoại xâm, Quá trình xác lập chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; một số tác phẩm địa lý như Thiên nhiên Việt Nam, Địa lý tự nhiên biển Đông, Địa mạo bờ biển Việt Nam là nguồn tài liệu tham khảo giá trị, giúp ích rất nhiều cho đề tài.

5. Phương pháp nghiên cứu và mục đích, nhiệm vụ của luận văn

Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong luận văn chủ yếu là phương pháp lịch sử và phương pháp lôgích; đồng thời kết hợp một số phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh để trình bày và đánh giá những vấn đề đặt ra.

Mục đích, nhiệm vụ đặt ra trong luận văn là trên cơ sở sưu tầm, tập hợp, phân tích tư liệu, so sánh lịch đại để trình bày, phân tích, đánh giá về chính sách an ninh - phòng thủ biển của triều Nguyễn và hiệu quả của chính sách đối với việc bảo vệ an ninh, quốc phòng của đất nước trong khoảng thời gian 1802 - 1858.

Để nghiên cứu chính sách của một triều đại về một vấn đề, yêu cầu quan trọng đầu tiên là phải tìm hiểu được nhận thức của triều đại về vấn đề đó. Nhận thức về đặc điểm vùng biển, về nguồn tài nguyên biển, về những thách thức từ nguồn tài nguyên biển và thách thức từ hoạt động khai thác nguồn tài nguyên là yếu tố quan trọng giúp Nhà nước hoạch định chính sách. Tuy nhiên, từ nhận thức đến chính sách, rồi từ chính sách đến thực tiễn thực hiện còn là cả những khó khăn. Do chịu sự tác động của nhiều yếu tố (chủ quan, khách quan), chính sách đưa ra không phải lúc nào cũng phù hợp với nhận thức, cũng như kết quả của việc thực hiện chính sách không phải bao giờ cũng đạt được mục tiêu mà chính sách đề ra. Vì vậy, luận văn triển khai theo phương pháp nghiên cứu từ nhận thức của triều Nguyễn đối với biển, đối với những thuận lợi và thách thức của nguồn tài nguyên, của hoạt động khai thác nguồn tài nguyên biển đối với nền an ninh-quốc phòng của nhà Nguyễn, sau đó nghiên cứu chính sách an ninh- phòng thủ của triều đình Huế, bước đầu đưa ra nhận xét về hiệu quả của chính sách.

6. Bố cục của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục, Tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn được chia thành 4 chương:

Chương 1 tìm hiểu về những yếu tố tác động đến chính sách an ninh-phòng thủ biển của nhà Nguyễn. Ở chương này, sau khi tìm hiểu khái quát về biển Việt Nam và vấn đề đặt ra của an ninh - phòng thủ biển đối với nền độc lập, an ninh quốc gia, luận văn tìm hiểu chính sách an ninh-phòng thủ biển của các Nhà nước phong kiến Việt Nam trước Nguyễn; những thuận lợi và thách thức về an ninh - phòng thủ biển đặt ra đối với nhà Nguyễn ở nửa đầu thế kỷ XIX cũng như khả năng nhận thức của triều đình về những thuận lợi và thách thức này.

Chương 2 tập trung tìm hiểu các biện pháp xây dựng lực lượng thủy quân chuyên trách an ninh-phòng thủ biển dưới triều Nguyễn. Đó là các biện pháp nhằm xây dựng một đội thủy quân mạnh về số lượng và chất lượng. Bên cạnh đó, việc tìm hiểu khái lược các cơ quan quản lý an ninh-phòng thủ biển ở trung ương và địa phương cũng được chương 2 quan tâm để giúp luận văn có cái nhìn bao quát và toàn diện hơn khi đánh giá chính sách an ninh - phòng thủ biển của nhà Nguyễn.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 265 trang tài liệu này.

Đặc điểm tự nhiên của vùng duyên hải, vùng biển - đảo đều có những nét đặc trưng riêng. Bên cạnh đó, vai trò đối với nền an ninh - phòng thủ biển và mức độ tác động lên đời sống dân cư miền biển của mỗi vùng lại mang những nét đặc thù khác nhau. Vì vậy, để hiểu chính sách an ninh-phòng thủ biển của nhà Nguyễn một cách sâu sắc, toàn diện, việc tìm hiểu chính sách an ninh-phòng thủ biển trên mỗi vùng cụ thể và tìm hiểu mối liên hệ của chính sách trên hai vùng đó là hướng tiếp cận hợp lý và cần thiết. Trên thực tế, để đạt được hiệu quả cao nhất trong việc đảm bảo an ninh-phòng thủ biển, nhà Nguyễn đã có những chính sách, biện pháp cụ thể, phù hợp với đặc điểm của từng vùng và vẫn đảm bảo sợi dây liên kết chặt chẽ trong chính sách của cả hai vùng. Do đó, nội dung chương 3 và chương 4 được triển khai theo hướng: chương 3 đi sâu tìm hiểu những chính sách an ninh - phòng thủ biển của nhà Nguyễn ở vùng duyên hải, chương 4 tập trung tìm hiểu những biện pháp an ninh - phòng thủ trên biển và hải đảo.


Chính sách an ninh ­phòng thủ biển của nhà Nguyễn ở nửa đầu thế kỷ XIX 1802 - 1858 - 3

Chương 1: NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN

CHÍNH SÁCH AN NINH - PHÒNG THỦ BIỂN CỦA NHÀ NGUYỄN


Một yếu tố quan trọng định hình nên chính sách chính là tính mục đích. Khi ban hành chính sách, chủ thể ban hành sẽ đặt ra một mục đích nhất định của chính sách. Vì vậy, muốn đạt hiệu quả của mục đích, thông thường các chính sách đều được xây dựng trên cơ sở những nhận thức và hiểu biết nhất định của chủ thể ban hành về các đối tượng của chính sách. Do đó, để hiểu và lý giải một cách sâu sắc chính sách an ninh-phòng thủ biển của nhà Nguyễn ở nửa đầu thế kỷ XIX (1802- 1858) thì vấn đề quan trọng đầu tiên là tìm hiểu những cơ sở nền tảng, những yếu tố tác động đến sự hình thành của chính sách.

1.1. Biển và vấn đề an ninh-phòng thủ biển đối với an ninh và chủ quyền quốc gia

Là một quốc gia nằm trên bán đảo Đông Dương, chiều dài lớn gấp bốn lần chiều rộng nên không có nơi nào trên đất nước Việt Nam xa biển hơn 500 km theo đường chim bay. Trong tổng số chiều dài khoảng 7.760 km đường biên giới thì Việt Nam đã có đến 3.260 km đường biên trên biển cần bảo vệ, 2.773 đảo trên vùng biển rộng lớn, đó là chưa kể những đảo trong hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa [77, tr.4].

Một không gian rộng khoảng 1 triệu km2 với thềm lục địa rộng lớn bao gồm

toàn bộ vịnh Bắc Bộ và một phần vịnh Thái Lan, vùng biển Đông (một biển phụ của Thái Bình Dương) được xếp vào hàng thứ ba về diện tích so với các biển kín khác, tương đương với 3/4 Địa Trung Hải. Đó là một biển nóng, nằm gần như hoàn toàn

trong vành đai nhiệt đới; là một biển tương đối kín vì có nhiều đảo và quần đảo rộng lớn bao quanh. Các đảo và quần đảo này tạo ra một loạt các eo biển làm cho sự giao thông giữa biển Đông với các biển và đại dương khác trở nên an toàn, thuận lợi. Vị trí giao thông của biển Đông không dừng lại ở ý nghĩa quốc gia, khu vực mà còn mang ý nghĩa quốc tế. Con đường thông thương ngắn và tiết kiệm mà tàu thuyền muốn vượt Ấn Độ Dương sang Thái Bình Dương là con đường qua biển Đông. Hơn thế, từ hơn 2.000 năm trở về trước, biển Đông đã là một tuyến hải thương quan trọng trong khu vực. Theo gió mùa, những thương thuyền Đông Nam Á đi xuôi ngược Bắc-Nam, giữa Đông Nam Á hải đảo (Malacca hay Gia va/Java) và Đông Bắc Á lục địa (Trung Quốc, bán đảo Triều Tiên và các đảo Nhật Bản), đều phải ghé qua Đại Việt và Chămpa, hai vương quốc thuộc duyên hải biển Đông [104, tr.60].

Ngày nay, biển Đông còn nằm ngay trên ngã tư đường hàng hải quốc tế, nhất là lượng hàng hoá quan trọng như dầu hoả, khí đốt đến Nhật đều qua con đường này. Không chỉ vậy, vùng trời biển Đông còn là đường bay quốc tế từ Xinhgapo, Băng Cốc qua Hồng Kông, Manila, Tôkyô và nhiều đường bay khác.

Biển Đông có hai hiện tượng đặc biệt: thuỷ triều và dòng biển. Thuỷ triều của biển Đông dâng lên khá cao, trung bình đến 1,5 m, ở các vũng biển hay các cửa sông có thể lên tới trên 4 m. Điều đó có ảnh hưởng rất lớn tới sự hình thành địa hình ven biển, đến giao thông vận tải và cuộc sống dân cư vùng duyên hải. Biển Đông có hai dòng biển, một ở trong biển Đông và một ở vịnh Thái Lan. Hai dòng biển này đã tham gia bồi đắp thêm đất đai cho lãnh thổ Việt Nam, mang đến nhiều giống cá quý từ phương Bắc, phương Nam, tạo ra những bãi cá lớn, đặc biệt ở ngoài khơi Phan Thiết [79].

Thềm lục địa rất giàu sa khoáng sản biển như các kim loại hiếm, nhất là thiếc, titan, ziacôn, mônazit chứa uran và thôri, kể cả vônphram và vàng. Đặc biệt nguồn tài nguyên dầu mỏ rất triển vọng, cả phần thềm lục địa ở miền Bắc, miền Nam, và các đảo, quần đảo ngoài khơi (Trường Sa, Hoàng Sa) đều có những túi dầu trữ lượng đáng kể [11]. Ngày nay trong xu thế phát triển chung của thế giới thì ngành công nghiệp dầu khí được coi là ngành công nghiệp chiến lược.

Nhờ biển Đông, khí hậu nước ta mang nhiều đặc điểm của khí hậu hải dương, cây cỏ xanh tốt quanh năm thuận lợi cho phát triển sản xuất nông - lâm nghiệp. Khi

mà các ngành công nghiệp dựa trên sức mạnh của biển cả được phát triển như giao thông đường biển, ngư nghiệp, công nghiệp khai khoáng, biển Đông sẽ phát huy hiệu quả hơn những tiềm năng của mình.

Biển là một con đường quan trọng kết nối thế giới, giữa phương Đông và phương Tây, là cầu nối văn hoá các châu lục, các dân tộc. Bản thân nó cũng in đậm dấu nét trong đời sống tín ngưỡng, văn hoá của cư dân biển, tạo nên nét “văn hoá biển”, thậm chí còn hình thành cả một nền văn hoá, văn minh biển. Trong lịch sử dân tộc, cư dân Việt Nam cũng từng tạo nên những nền văn hoá, văn minh mang đậm yếu tố biển như thế, tiêu biểu là văn hóa Đông Sơn, văn hoá Sa Huỳnh, văn hóa Óc Eo.

Với vị trí địa lý trọng yếu, nguồn tài nguyên sinh vật, sa khoáng phong phú, biển Việt Nam có ý nghĩa to lớn, chi phối mọi mặt đời sống đất nước. Đó không chỉ là nguồn tài nguyên ven bờ mà còn cả ngoài khơi, các đảo, trên mặt nước và sâu trong thềm lục địa. Những nguồn lợi có ý nghĩa chiến lược đó cho phép chúng ta khai thác hiệu quả để phát triển đất nước nhưng đồng thời cũng đặt ra những thách thức lớn, nhất là vấn đề an ninh quốc gia, chủ quyền biển.

Một vùng biển rộng lớn giàu tài nguyên như biển Đông sẽ là tấm đệm che chắn cho đất nước từ các quốc gia phía biển, là nguồn “biển bạc” để phát triển kinh tế, đồng thời cũng đặt ra những thách thức lớn đối với chủ quyền biển do vị trí địa lý chiến lược và nguồn lợi mà biển đem lại.

Những đặc điểm này sẽ chi phối tầm nhìn của những người lãnh đạo đất nước, từ đó tác động đến toàn bộ chính sách cai trị, đặc biệt là chính sách an ninh, phòng thủ biển.

1.2. Vấn đề an ninh - phòng thủ biển trong chính sách quản lý đất nước của các Nhà nước phong kiến Việt Nam trước Nguyễn

Trước khi Nhà nước phong kiến Việt Nam độc lập tự chủ được thành lập (năm 938) biển đã in đậm dấu ấn trong đời sống cư dân Việt Nam cổ xưa. Đó là hình ảnh của một “biển bạc” cất giữ huyền thoại cao đẹp và thiêng liêng về gốc tích “con rồng cháu tiên” với mẹ Tiên Âu trên núi sánh duyên cùng cha Rồng Lạc dưới biển, (huyền thoại của người Mường1, người Tày - Thái cổ2 (Tày Đăm, Tày Khao) cũng mang những nét tương đồng), hay truyền thuyết Mai An Tiêm sống trên một hòn

1 Huyền thoại Hươu Ngu kết duyên cùng chàng Cá

2 Huyền thoại về cặp đôi Chim - Rắn

đảo hoang vắng. Gần hơn truyền thuyết, những dấu vết khảo cổ học cho thấy lịch sử cư trú của cư dân Việt Nam cổ đã có sự gắn bó với biển thể hiện qua những nền văn hóa như Soi Nhụ - Cái Bèo, Hạ Long (ven biển Đông Bắc), Đa Bút, Quỳnh Văn (ven biển miền Trung), di chỉ Đồng Nai, Óc Eo (ven biển miền Nam),...

Đặc biệt, sự phát triển mạnh mẽ của một vương quốc biển Chămpa ở miền Trung và một đế chế biển Phù Nam ở miền Nam trong lịch sử là những minh chứng tiêu biểu cho sự hướng biển và sức mạnh khai thác biển của cư dân Việt Nam từ ngàn xưa.

* Triều Ngô (938 - 965) - Đinh (968 - 979) - Tiền Lê (980 - 1009)

Chiến thắng ở cửa biển Bạch Đằng năm 938 của Ngô Quyền chấm dứt thời kỳ nghìn năm Bắc thuộc, mở ra thời kỳ tự chủ lâu dài của các triều đại phong kiến Việt Nam. Chiến thắng đó đồng thời cũng đánh dấu những hiểu biết sâu của người Việt về đặc điểm thuỷ triều, về tầm chiến lược quan trọng của các cảng biển trong vịnh Bắc Bộ, “mở ra truyền thống Bạch Đằng, truyền thống thủy chiến, nghệ thuật tiêu diệt thật nhanh chóng và triệt để các đoàn quân xâm lược hùng mạnh ở địa đầu sông biển của Tổ quốc chỉ trong vòng một con nước triều” [45; tr.53].

Dưới triều vua Đinh (968 - 979), Đinh Tiên Hoàng được nhắc đến như người “khai sử” qua biển sang Quảng Châu kết hiếu với triều Tống (Trung Hoa) vào năm 970. Rồi sau đó con trai của Đinh Tiên Hoàng lại được phong làm Tĩnh hải quân tiết độ sứ (vị quan lớn về quân sự làm yên miệt biển).

Kế thừa bài học kinh nghiệm vua Ngô để lại, năm 981, một lần nữa, cửa biển Bạch Đằng lại chứng kiến chiến công oanh liệt của Lê Hoàn trong cuộc kháng chiến chống xâm lược phương Bắc. Chiến thắng đã tiếp tục khẳng định khả năng thuỷ chiến và những hiểu biết sâu sắc của các triều đại Việt Nam về vùng cửa biển. Không những vậy, trong thời gian trị vì, Lê Hoàn còn nhiều lần chỉ huy thuỷ quân vượt biển vào Nam chinh phạt Chiêm Thành nên những hiểu biết về biển của Nhà nước thời kỳ này ngày càng được dày thêm. Cũng trong thời gian đó, hệ thống sông ngòi xuyên suốt từ Ninh Bình qua Thanh Hoá được khơi đào để tránh những trở ngại sóng gió đường biển và cũng là khơi thông con đường từ kinh đô Hoa Lư ra biển để vào Nam. Năm 990, sứ nhà Tống là Tông Cảo được cử sang sứ nước ta, Lê Hoàn liền sai 300 thuỷ quân và 9 chiếc thuyền lớn vượt biển, đến tận cảng Thái Bình (Liêm Châu, Quảng Đông) để đón sứ giả và sau đó tổ chức thao diễn thuỷ quân ở cửa biển Vân

Sàng (gần kinh đô Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình) để “khuyếch trương quân thuỷ và tài đánh thuỷ” [93, tr.85].

* Triều Lý (1009 - 1225)

Tiếp nối những thành tựu của các triều đại trước, vua Lý tiếp tục cho khơi đào sông ngòi, nạo vét thêm nhiều cửa cảng. Hệ thống cửa biển và hải đảo được Nhà nước chú ý xây dựng thành địa đồ hoàn chỉnh, phục vụ đắc lực cho các cuộc hành quân tiến đánh Chiêm Thành hay phá Ung Châu, Khâm Châu, Liêm Châu sau đó.

Đặc biệt, dưới triều vua Lý Anh Tông, một chiến lược “tương đối đầy đủ và hệ thống” của nhà Lý đối với các vùng biển đảo Đông Bắc đã được định hình. Đó là việc xây dựng các cơ sở quản lý trên vùng biển đảo mà “công việc quan trọng đầu tiên” của vương triều này là dựng hành dinh ở trại Yên Hưng (tháng 10 năm 1147, nay thuộc Quảng Ninh), “nơi đầu tiên vua Lý Anh Tông, Vương triều Lý và các nhà nước phong kiến Việt Nam đã triển khai và thực thi một chiến lược xây dựng và bảo vệ các vùng biển đảo, các kế hoạch chặn đứng và đánh tan các đạo quân xâm lược tại vùng cửa ngò yết hầu của đất nước, dù chúng hùng hổ kéo quân từ biển vào đất liền hay đã bị đánh bại trong đất liền đang tìm đường tháo chạy ra biển. Bên cạnh đó, trang Vân Đồn (thuộc Quảng Ninh ngày nay) được lập nơi hải đảo (tháng 2 năm 1149) nhằm kiểm soát các hoạt động của tàu thuyền nước ngoài đến Đại Việt buôn bán, dâng tiến sản vật. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng liên tục cho đóng các hạng thuyền lớn, tổ chức các đội tàu thuyền kiểm tra, kiểm soát, khai thác và bảo vệ các vùng biển đảo, xác định ranh giới trên biển, bảo vệ dân chúng và mở rộng các quan hệ giao thương buôn bán với tầu thuyền ngoại quốc... Bản thân vua Lý Anh Tông đã nhiều lần đích thân tham gia vào hoạt động tuần phòng, vẽ bản đồ hải đảo, kể cả các hải đảo ở địa giới các phiên bang Nam Bắc, như vào các năm 1171, 1172.

* Triều Trần (1226 - 1400)

Dưới triều Trần, cái nhìn về biển mang đậm dấu ấn của một triều đại gốc dân chài miệt biển - một cái nhìn khoáng đạt và cởi mở. Do đó, sự am hiểu biển trên tất cả các phương diện (phòng thủ, nguồn lợi) của nhà Trần cũng rất sâu sắc. Với sự nhận thức sâu sắc đó, nhà Trần đã rất chú trọng trong việc canh phòng miệt biển, luôn quan tâm, để mắt đến vùng biển thuộc chủ quyền của mình. Vân Đồn được lập từ thời Lý Anh Tông, trong thời gian này được tiếp tục xây dựng để trở thành một căn cứ hải quân quan trọng và đã làm nên kỳ tích đại thắng Vân Đồn (tháng 2 -

1288), tạo tiền đề cho chiến thắng Bạch Đằng (tháng 4 - 1288) trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ ba. Năm 1349, vua Trần đã nâng Vân Đồn từ vị trí trang (tức trang trại, ngang với làng xã) thời Lý thành một trấn (ngang cấp tỉnh, trực thuộc triều đình trung ương), đặt các chức quan: Trấn quan (vò tướng chỉ huy), Lộ quan (quan văn cai trị), Sát hải sứ (quan kiểm soát mặt biển). Nhà nước cũng tổ chức một đội quân Bình Hải - đơn vị hải quân độc lập đầu tiên - đóng giữ vùng biển, với lực lượng khoảng 30 thuyền trực chiến chưa kể số quân binh dịch. Với tầm nhìn chiến lược về biển, việc phòng bị giám sát vùng biển của triều Trần, nhất là vùng biển Đông Bắc, được thực hiện nghiêm ngặt đến nỗi ngay cả sự kiện vua Trần về tu tại Yên Tử (Quảng Ninh) cũng được các sử gia thời sau đánh giá: về tâm linh thì tu hành ở Yên Tử, về thực tế là luôn luôn để mắt tới vùng biển Đông Bắc của đất nước [94, tr.18].

* Triều Hồ (1400 - 1407)

Triều Hồ (1400 -1407) chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn nên các hoạt động trên biển nhìn chung chưa có bước đột phá so với nhà Trần.

Dưới triều Lý, Trần, Hồ trong quan niệm phân chia hành chính, ngoài Hải Đông gồm khu vực ven biển và hải đảo các vùng Hải Phòng, Hải Dương, Quảng Ninh ngày nay, đã xuất hiện thêm Hải Tây tức vùng biển Thanh, Nghệ Tĩnh [93, tr.165].

Như vậy, từ triều Ngô (938 - 965) đến triều Trần (1226 - 1400), trải qua nhiều triều đại phong kiến độc lập, ý thức về chủ quyền biển cũng như hoạt động bố phòng miền biển đã được đặt ra với những mức độ khác nhau. Thời Ngô, Đinh, Tiền Lê việc phòng thủ đường biển đã được đặt ra nhưng mới chỉ mang tính nhất thời và phụ thuộc vào mức độ đe doạ từ thế lực xâm lược bên ngoài. Đến triều Lý, một chiến lược về biển đảo chính thức được đặt ra. Sang thời Trần - Hồ hệ thống phòng thủ có thêm những bước tiến mới. Những chính sách về an ninh - phòng thủ biển đó đã phản ánh một sự phát triển về ý thức chủ quyền biển của các Nhà nước phong kiến Việt Nam.

* Triều Lê sơ (1428 - 1527)

Dưới triều Lê, nhất là Lê Thánh Tông (1460 - 1497), biên giới phía Nam của Đại Việt được mở rộng đến tận Quảng Nam. Sự thâu giữ toàn bộ vùng biển đảo miền Trung (đến Quảng Nam) sau những cuộc chinh phạt Chămpa của vua Lê Thánh Tông cho thấy tầm nhìn đối với biển của vị vua tài giỏi triều Lê này. Tập bản đồ Hồng Đức

Xem tất cả 265 trang.

Ngày đăng: 23/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí