2.3.2. Chính sách của chính quyền Kennedy đối với Việt Nam
2.3.2.1. Thực hiện chủ nghĩa thực dân kiểu mới
Cũng như các đời Tổng thống Truman, Eisenhower, chính quyền Kennedy đã ráo riết thực hiện chính sách thực dân kiểu mới ở miền Nam Việt Nam, biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa và căn cứ quân sự của Mỹ.
Ngày 21-4-1961, Kennedy tuyên bố: “Việc chúng ta làm thế nào để chống lại loại hoạt động đó – hoạt động của du kích cộng sản - ở miền Nam Việt Nam mà chúng ta sẽ gặp phải trong suốt một thời kỳ 10 năm sắp tới, sẽ là một trong những vấn đề trọng đại mà hiện nay Hoa Kì đang phải đương đầu” (Tiếng nói Hoa Kì ngày 22-4-1961 thuật lại lời phát biểu của Kennedy ở Hội nghị báo chí ngày 21-4-1961). Hãng thông tấn Mỹ UPI ngày 4-5-1961 đã nói rò hơn vì sao “miền Nam Việt Nam lại là một trong những vấn đề trọng đại” của Mỹ hiện nay: “Tổng thống Mỹ Kennedy đã tuyên bố: trước mắt, giới tuyến cuối cùng chống chủ nghĩa cộng sản ở Đông Nam Á là ở Nam Việt Nam và Thái Lan”.
Ngày 8-5-1961, chính sách đối với Việt Nam đã chính thức được Kennedy phê chuẩn và mang tên NSAM-52 với nội dung chủ yếu:
- Tăng cường và mở rộng quyền điều hành tác chiến, chỉ huy, yểm hộ của Phái đoàn cố vấn quân sự (MAAG).
- Đưa lực lượng đặc biệt của Mỹ vào miền Nam Việt Nam, giúp Diệm xây dựng lực lượng đặc biệt, chốt chặt biên giới, chống miền Bắc xâm nhập.
- Tăng cường mở rộng, cải tiến trang bị và huấn luyện quân đội, coi đó là công cụ chủ yếu để chống chiến tranh du kích.
- Khẩn trương bình định, lập "ấp chiến lược" hòng dồn hơn 10 triệu dân miền Nam vào các trại tập trung trá hình để thực hiện “Tát nước bắt cá”, cô lập để tiêu diệt cách mạng miền Nam.
- Ra sức củng cố chính quyền các cấp và đẩy mạnh các hoạt động chiến tranh phá hoại chống lại miền Bắc. [22, tr.179]
Có thể bạn quan tâm!
- Chính Quyền Kennedy Và Chiến Lược Toàn Cầu Của Mỹ
- Chiến Lược Quân Sự Toàn Cầu “Phản Ứng Linh Hoạt”
- Tình Hình Nam Việt Nam Khi Kennedy Lên Nắm Chính Quyền.
- Quá Trình Thực Hiện Đường Lối Và Các Chính Sách Của Chính Quyền Kennedy Ở Việt Nam.
- Chính quyền Kennedy và cuộc chiến tranh Việt Nam 1960 – 1963 - 12
- Chính quyền Kennedy và cuộc chiến tranh Việt Nam 1960 – 1963 - 13
Xem toàn bộ 145 trang tài liệu này.
Để thực hiện âm mưu xâm lược thực dân kiểu mới đối với miền Nam Việt Nam, Kennedy đã cử và ủy nhiệm một loạt các phái viên cao cấp của chính phủ tới Sài Gòn gặp gỡ, đàm phán với chính phủ Diệm tạo những “cơ sở pháp lý” cần thiết cho Mỹ.
Ngày 1-5-1961, L. Johnson – Phó Tổng thống Mỹ được Kennedy cử đến Việt Nam trực tiếp đàm phán và kí kết với Diệm một thỏa hiệp quân sự - kinh tế mới. L. Johnson mang theo bức thư của Kennedy gửi Diệm gồm 15 điểm trong đó có 6 điểm chính:
1. Tăng thêm viện trợ cho lực lượng bảo an ở miền Nam Việt Nam và xúc tiến huy động tích cực lực lượng đó để mở rộng quân đội chính quy miền Nam.
2. Cử nhiều phái đoàn “cố vấn quân sự” Mỹ để giúp đỡ và huấn luyện các lực lượng dân vệ ở nông thôn.
3. Cấp thêm ngân sách viện trợ để tuyển thêm 2 vạn quân chính quy cùng với số 15 vạn quân chính quy hiện có.
4. Tổ chức huấn luyện đặc biệt về du kích chiến đấu cho các đơn vị quân đội chính quy.
5. Đưa những đơn vị công binh Mỹ sang miền Nam Việt Nam để sửa cầu do du kích phá hoại và xây dựng các đường sá, sân bay…
6. Tăng thêm tiền và chuyên viên để thực hiện những kế hoạch rộng lớn về y tế, giáo dục và phát triển kinh tế. [60, tr.165]
Dựa trên 6 điểm cơ bản và các điểm khác trong thư Kennedy gửi Diệm,
L. Johnson và Diệm đã đi đến thỏa hiệp 8 điểm sau:
“1. Hai chính phủ thỏa hiệp gia tăng viện trợ quân sự và kinh tế căn cứ vào những chương trình đang thi hành và mọi hoạt động trong phạm vi này sẽ xúc tiến theo một ý chí cương quyết và cẩn mật đề phòng.
2. Hai chính phủ sẽ thỏa hiệp tăng cường quân đội Việt Nam cộng hòa. Chính phủ Hoa Kì sẽ viện trợ thêm về quân sự để Việt Nam có thể bổ túc quân số cho các lực lượng chính quy.
3. Chính phủ Hoa Kì, trong khuôn khổ viện trợ quân sự đảm nhận tất cả việc trang bị cho các lực lượng bảo an.
4. Hai chính phủ thỏa hiệp cộng tác trong việc sử dụng các chuyên viên quân sự ở những phạm vi mà quân đội Việt Nam hoạt động để giúp đỡ dân chúng về y tế, xã hội, công chính trong các thôn xã Việt Nam tự do.
5. Hai chính phủ thỏa hiệp rằng sự viện trợ của các chính phủ khác cho Việt Nam cộng hòa để chống du kích cộng sản sẽ được hoan nghênh.
6. Hai chính phủ thỏa thuận cho một nhóm chuyên viên cao cấp về kinh tế và tài chính sẽ nhóm họp tại Việt Nam để soạn thảo một kế hoạch tài chính, làm căn bản cho những hoạt động phối hợp của hai quốc gia. Kế hoạch này nhằm sử dụng hữu hiệu những tài nguyên khả dụng của Việt Nam cũng như của Mỹ trong cuộc chiến đấu chung chống cộng sản tại Việt Nam.
7. Hai chính phủ sẽ thỏa hiệp áp dụng những biện pháp mới về kinh tế và xã hội trong khu vực nông thôn với những biện pháp chống du kích để mau tái lập an ninh trật tự cho dân chúng Việt Nam ở các làng và các tỉnh.
8. Ngoài những biện pháp liên hệ đến vấn đề cấp thời chống du kích Việt cộng, hai chính phủ sẽ cùng thiết lập một chương trình khuếch trương kinh tế dài hạn. Chương trình này thể hiện những tiến bộ mới trong lĩnh vực canh nông, y tế, giáo dục, ngư nghiệp, kiều lộ, hành chính và phát triển kĩ nghệ.” [60, tr.166]
Đối chiếu nội dung thông cáo 8 điểm của L. Johnson và Diệm với 6 điểm chính trong thư của Kennedy thì thấy rò căn bản chỉ là một. Điều đó cho thấy, Kennedy đã chủ động đề ra những biện pháp quân sự, kinh tế để tăng cường can thiệp ngày càng sâu vào các vấn đề của Nam Việt Nam. Thực chất đó chính là cách thức thực hiện chủ nghĩa thực dân kiểu mới.
2.3.2.2. Áp dụng chiến lược “chiến tranh đặc biệt”
Thắng lợi của phong trào Đồng khởi của nhân dân miền Nam Việt Nam đã đẩy chính quyền Sài Gòn vào thời kì khủng hoảng. Chiến lược “chiến tranh đơn phương” Eisenhower thi hành ở miền Nam Việt Nam đã bị phá sản. Trước tình hình đó, Ngày 20-1-1961, Kennedy nhậm chức Tổng thống
Mĩ và chính thức công bố học thuyết mới và chọn Việt Nam làm nơi thí điểm “chiến tranh đặc biệt”. Công cụ để tiến hành chiến tranh là lực lượng quân sự người bản xứ do Mỹ trang bị và chỉ huy.
Chiến lược “chiến tranh đặc biệt” được cụ thể hóa thực hiện ở Việt Nam bằng kế hoạch Staley – Taylor được chính phủ Mỹ và Sài Gòn thông qua trở thành “một chương trình hoạt động chung Việt – Mỹ”.
Ngày 19-6-1961, Staley được Kennedy cử đến Sài Gòn, kết quả của ba tuần hoạt động đàm phán của Staley là bản “kế hoạch Staley”. Xây dựng bản kế hoạch này là một quá trình nghiên cứu đàm phán nhất trí giữa hai nhóm chuyên viên của Mỹ gồm 6 người do Staley dẫn đầu và của chính phủ Diệm gồm 6 người do Vũ Quốc Thúc dẫn đầu. Bản kế hoạch nhanh chóng được Diệm thông qua và Kennedy cũng chấp nhận nó về căn bản nhằm nhanh chóng giải quyết vấn đề an ninh quốc nội và thực hiện công cuộc phát triển kinh tế ở Việt Nam.
Đây thực sự là kế hoạch lâu dài của Mỹ - Diệm bao gồm cả mặt kinh tế và quân sự phối hợp với nhau nhằm khống chế miền Nam và phá hoại miền Bắc. Nội dung của giai đoạn thứ nhất, giai đoạn được coi là quan trọng nhất
trong kế hoạch Staley bao gồm những biện pháp chính về kinh tế và quân sự sau:
“1. Đến hết năm 1961, tăng quân số của lực lượng chính qui miền Nam Việt Nam từ 150.000 lên 170.000 quân.
2. Tăng số quân bảo an từ 60.000 lên 100.000 người và chính qui hóa lực lượng đó.
3. Tăng số cảnh sát từ 45.000 lên 90.000 người.
4. Tăng cường tới mức độ cần thiết các tổ chức dân vệ xã.
5. Tăng số lượng và đẩy mạnh những cố gắng huấn luyện quân sự cho đoàn thanh niên cộng hòa.
6. Cải tiến các phương tiện liên lạc, lập nhiều đài phát thanh để phát triển mạng lưới giao thông liên lạc, mạng lưới này sẽ đẩy mạnh việc đánh trả các cuộc tấn công của du kích và tạo thêm điều kiện cho các cuộc tấn công.
7. Dồn làng và tập trung dân vào các “khu trù mật” và “ấp chiến lược”, thành lập một vành đai trắng, dọc biên giới Nam Việt Nam – Campuchia, “lập thêm 100 khu trù mật” ở vùng châu thổ sông Cửu Long xen kẽ với một hệ thống “ấp chiến lược” có hàng rào tre, dây thép gai và tháp canh bao bọc để tập trung nông dân miền Nam.
8. Có một kế hoạch toàn diện về hoạt động công dân vụ cho các quân
nhân.
9. Có những cải cách về chế độ thuế khóa, hối đoái ngoại tệ và một loạt
các dự án xí nghiệp công nghiệp để làm cho nền kinh tế phát triển.
10. Tăng cường viện trợ cho chính quyền Diệm để thực hiện các kế hoạch trên đây.” [60, tr.180]
So với các văn kiện đã được kí kết giữa Mỹ và Diệm thì đây thực sự là một chương trình được xây dựng hết sức chi tiết trong một thời gian dài. Và đây cũng là một chương trình tăng cường triệt để các lực lượng quân sự với
sự huấn luyện và trang bị của Mỹ, khai thác tài nguyên thiên nhiên phục vụ cho cuộc chiến tranh đặc biệt nhằm nhanh chóng bình định, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới, gây cơ sở để tấn công miền Bắc Việt Nam. Trong toàn bộ kế hoạch đó, vấn đề “ấp chiến lược” giữ một vị trí then chốt hòng tách nhân dân với lực lượng cách mạng.
Kế hoạch Staley là một kế hoạch toàn diện về quân sự - kinh tế. Tuy vậy, trước tình hình quân sự ngày càng tỏ ra không thuận lợi do quân dân miền Nam tiêu diệt được nhiều tiểu đoàn của Diệm ở Kontum và Plâycu, giới cầm quyền Washington cho rằng những biện pháp quân sự đề ra trong kế hoạch này chưa đủ kịp thời đối phó với tình hình và chưa đủ mạnh để thực hiện “bình định” miền Nam trong vòng 18 tháng. Ngày 18-10-1961, phái đoàn tướng Maxwell D. Taylor được Kennedy cử sang miền Nam Việt Nam. Nhiệm vụ của phái đoàn này chính là để nghiên cứu những biện pháp quân sự mạnh hơn trong đó kể cả khả năng gửi lực lượng Mỹ sang Việt Nam, trong đó có ba vấn đề chính: một là nghiên cứu các biện pháp quân sự cụ thể để tiến hành “chiến tranh đặc biệt”; hai là những hình thức tăng viện quân đội của Mỹ hay của các nước chư hầu; ba là nghiên cứu các biện pháp thích ứng về mặt tổ chức cho đế quốc Mỹ có thể trực tiếp chỉ huy cuộc chiến tranh ở miền Nam Việt Nam.
Sau khi hội đàm với Diệm, phái đoàn Taylor nghe các báo cáo về tình hình mọi mặt, làm việc trực tiếp với các tướng tá và đại sứ Mỹ tại Sài Gòn, đã đề ra một kế hoạch hành động gồm các điểm chủ yếu:
1. Đưa vào miền Nam Việt Nam ba sư đoàn quân Mỹ để “đánh bại Việt
cộng”
2. Đưa tượng trưng một số quân chiến đấu Mỹ “cốt nhằm mục đích xác
lập sự có mặt của Mỹ ở miền Nam Việt Nam” để nâng đỡ tinh thần quân đội
và chính quyền Sài Gòn đang sa sút mạnh và cũng để tạo điều kiện cho việc tăng viện quân Mỹ khi cần.
3. Tăng thêm viện trợ, vũ khí, trang bị chiến tranh và đẩy mạnh công tác huấn luyện cho lực lượng vũ trang Sài Gòn để nâng cao sức chiến đấu của nó.
Ngày 3-11-1961, phái đoàn Taylor gửi về Washington bản báo cáo nói trên, trong đó kiến nghị một loạt các biện pháp cấp bách để cứu vãn tình hình:
- Cử các cố vấn hành chính sang tham gia vào bộ máy chính quyền Sài Gòn.
- Cùng chính phủ Sài Gòn tiến hành các biện pháp cần thiết để cải thiện mạng lưới tình báo quân sự, chính trị trong chính quyền và quân đội.
- Mở các cuộc điều tra rộng lớn ở các tỉnh trên khắp miền Nam để định lượng các nhân tố xã hội, chính trị, kinh tế, tình báo, quân sự, tâm lý… có liên quan tới “công tác chống nổi loạn” để có thêm cơ sở cho việc đề ra các biện pháp có hiệu quả hơn.
- Tăng cường viện trợ, vũ khí, trang bị và huấn luyện cho lực lượng bảo an, dân vệ để lực lượng này đủ sức thay thế các đơn vị chính quy làm nhiệm vụ “diện địa” (giữ đất) tạo điều kiện cho các đơn vị chính quy đẩy mạnh các cuộc hành quân cơ động có tính tiến công.
- Giúp đỡ chính phủ Sài Gòn giám sát và kiểm soát vùng biển và các đường thủy nội địa bằng cách cung cấp cố vấn, nhân viên điều hành và phương tiện cần thiết cho nhiệm vụ này.
- Tổ chức lại và tăng biên chế cho phái đoàn cố vấn viện trợ quân sự Mỹ.
- Đưa vào miền Nam một lực lượng quân sự đặc nhiệm gồm 6000 đến 8000 quân hoạt động dưới sự chỉ đạo của Mỹ để tạo ra sự có mặt về quân sự, hỗ trợ các hoạt động quân sự và khi cần có thể mở các cuộc hành quân mang tính chất tiến công. Ngoài ra các lực lượng đặc nhiệm
này còn đóng vai trò “như một lực lượng Mỹ sẽ được đưa vào nếu như dùng đến kế hoạch khẩn cấp của Tổng tư lệnh Thái Bình Dương hoặc của khối SEATO”.
- Tăng thêm viện trợ để hỗ trợ thích đáng cho chương trình “chống nổi loạn mở rộng”. [46, tr.139]
Ngoài những biện pháp trên, phái đoàn Taylor còn kiến nghị một “chương trình tham gia có giới hạn” của Mỹ trong lĩnh vực quân sự; cử sang Việt Nam các cố vấn cao cấp tham gia vào các cơ quan chính phủ và các bộ phận chủ chốt; thành lập ban thanh tra quân sự hỗn hợp từ trung ương xuống quân khu và các tỉnh; tăng cường một cách cơ bản nhân viên huấn luyện Mỹ ở mọi cấp, trên mọi lĩnh vực quân sự, hành chính, kinh tế, văn hóa, xã hội; triển khai vào miền Nam những đơn vị công binh, hậu cần, máy bay lên thẳng nằm trong khuôn khổ lực lượng quân sự đặc nhiệm của Mỹ đã được đề nghị trước đây; đưa thêm các đội lực lượng đặc biệt của Mỹ để cùng lực lượng đặc biệt Sài Gòn tăng cường cho vùng biên giới, đẩy mạnh các hoạt động tiến công bí mật ra miền Bắc Việt Nam và Lào, kể cả những hoạt động biệt kích bằng không quân nếu tình hình miền Nam xấu đi, Mỹ sẽ ném bom miền Bắc để gây áp lực.
Kế hoạch của Taylor đề ra chính là một số biện pháp bổ sung để tiến hành cuộc “chiến tranh đặc biệt”. Một đặc điểm lớn trong kế hoạch của Taylor là mở rộng việc đào tạo “biệt kích” và huấn luyện về chiến thuật chống du kích và phối hợp với những đơn vị hoạt động đặc biệt với những lực lượng chống du kích. Đó chính là việc thực hiện đường lối “chiến tranh tổng lực” của Kennedy và là chiến thuật đặc thù của Taylor, mà trong cuốn sách “Tiếng kèn ngập ngừng”, Taylor gọi nó là “chiến thuật tùy cơ ứng biến một cách mềm dẻo”.